Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.
Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .
Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Thứ Ba 16/08/1977
- Ngày Sinh Âm Lịch: 02/07/1977
- Tứ Trụ: năm Đinh Tỵ, tháng Mậu Thân, ngày Ất Tỵ, giờ Quý Mùi
- Lưỡng Đầu Kiềm: Đinh Quý
QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM |
||
Đinh |
Khôn Trên |
|
Quý |
Cấn Dưới |
|
NGƯ TÙNG HẠ ĐIẾU Thả câu đúng bụi có cá Thời vận đến rồi được lợi không kể xiết |
Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Đinh Tỵ, tháng Mậu Thân, ngày Ất Tỵ, giờ Quý Mùi, Lưỡng đầu kiềm Đinh Quý được quẻ ĐỊA SƠN KHIÊM. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục NGƯ TÙNG HẠ ĐIẾU (Thả câu đúng bụi có cá), nghĩa là: Thời vận đến rồi được lợi không kể xiết (Thời lai vận lai hoạch lợi vô toán )
• Thử mệnh như phù vân xuất trục, dã hạc lệ phong, tâm tại tứ phương, chí tồn biệt xứ, kháo tổ nan thành sự nghiệp, ly hương khả lập căn cơ, tài nhược tỉnh tuyền, mệnh như phong trúc, lưỡng tam phiên cải hóan y quan, tứ ngũ độ trùng lập gia kế, xuất gia vị tận, tại tận vị cô, tai nạn lý hữu cứu thần tương tùy, hoàn tục trung hữu thóai thần tương phá, thương thê hại tử, huynh đệ biệt ly, ban lai vận khứ chỉ kiến dụng tận tinh thần, yếu hành thanh nhàn tiêu sái địa, nại hà thân hãm hỏa cang trung,
• (Mệnh này ví như mây nổi ra khỏi động huyệt, như hạc đồng kêu gió, tâm ở tại bốn phương trời mà chí đang còn ở nơi xứ khác, nương nhờ tổ nghiệp khó thành sự nghiệp, rời xa quê hương khá gầy dựng được nền gốc cơ đồ, tiền tài như mạch nước suối nước giếng, mệnh như đuốc trước gió, hai ba phen thay đổi áo mũ, bốn năm độ lập lại gia kế, xuất gia tu chưa trọn, tại gia chưa cô đơn, trong tai nạn có cứu thần cùng theo, trong hoàn tục có thóai thần cùng phá, thương đau cho vợ làm hại cho con, anh em xa cách, xoay đi vần lại chỉ thấy dùng hết cả mọi tinh thần, cần tới đất thanh nhàn tiêu dao tự tại, không vướng vít vào cái gì, tại sao thân vẫn cứ hãm ở trong lò lửa?)
Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'NGƯ TÙNG HẠ ĐIẾU' (Thả câu đúng bụi có cá) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.
Tên |
Lời Thơ |
Ý Nghĩa |
Tổng Cách |
VÂN KHAI KIẾN NGUYỆT Thủy lãnh vô ngưu tọa điếu đài Hắc văn xuy tán bích thiên khai Hồng trần trận trận tùy phong khứ Thúy trúc thanh thanh bàng nguyệt lai Song thủ phất khai hàn kiếm hạp Nhất thân đĩnh xuất đống lương tài Tòng tiền thác dụng công phu xứ Chỉ bả hoàng hoàng hoán tác ngốc | MÂY TAN THẤY MẶT TRĂNG Nước lạnh không có cá cứ ngồi dai Mây đen đã tan thấy nền trời biếc Bụi hồng trần lả tả bay theo gió Trúc xanh biên biếc ánh trăng về Hai tay vung mở bao kiếm lạnh Một thân nổi bật tài lương đống (1) Trước đây từng dụng công không đúng chổ Cứ bàng hoàng như kẻ si ngốc (1) Lương đống là rường cột. |
Cơ Nghiệp |
Đại hải trung niên phương tiệm hành Thanh thiên hiệu nguyệt chuyển phân minh Phùng dương ngộ khuyển công danh hội Chỉnh lý mạc nha vạn lý trình |
Bể lớn vào tuổi trung niên mới thành Trời xanh trăng sáng thật rõ ràng Năm Mùi năm Tuất đúng là hội công danh Sửa soạn xiêm áo (1) lên đường muôn dặm (1) Mạc nha là áo của người có chức vụ nơi công quyền |
Huynh Đệ |
Phong xuy tam nhạn đồng phi khứ Nhất chích cao tường tại bích tiêu Đa thiểu giang san thanh hứng tại Vãng lai cô lộ tại tiêu dao |
Gió thổi ba con chim nhạn cùng bay đi Một con bay tít tận mây xanh Bấy nhiên non nước còn cao hứng Tuổi già còn cô đơn tự an nhàn |
Sự Nghiệp |
Đào lý thụ thượng sinh tùng tử Đắc kiến ngưu dương lộc tự thăng Phượng các long lâu đa ngộ hội Yêu kim y tử nhập phong thần |
Trên cây đào cây lý lại sinh ra quả tùng Đến năm Sửu năm Mùi sẽ thăng quan tiến lộc Lầu rồng gác phượng nhiều phen hội ngộ Đai vàng áo tía vào cung Vua |
Hôn Nhân |
Xuân nhật dung hòa thủy mãn trì Uyên ương đồng hý bích ba nhai Hốt phùng oanh yến kinh phi tán Âu lộ thu lai cảnh khước nhi |
Ngày xuân ấm áp nước đầy ao Chim uyên ương cùng giỡn bên bờ sóng biếc Chợt gặp yến oanh bay đi mất Đến mùa thu lại càng thích hợp với cò vạc |
Con Cái |
Tường ngoại nhất chi tam quả kết Hoa tàn nhất quả lạc sơn tiền Du hòe tang chanh tùy thời thịnh Nhất chú thanh hương tạ thượng thiên |
Ngoài tường một cành có ba quả Hoa tàn một quả rụng trước núi Các cây du, cây hòe, cây dâu, cây chanh tùy mùa tươi tốt Một lò hương thơm tạ ơn Trời |
Hậu Vận |
Đáo đầu khoái lạc tiêu diên khách Tý Ngọ tương xung qui vân bắc Xuy tiêu nhân khứ yến lâu nhàn Đối kính vô ngôn không mặc mặc |
Cuối cùng khách được tiêu dao nơi khoái lạc Hai năm Tý Ngọ xung nhau mây sẽ về bắc Người thổi sáo đi rồi lầu yến nhàn Soi gương không nói lòng buồn dặc dặc |