Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.
Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .
Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Thứ Sáu 15/11/1985
- Ngày Sinh Âm Lịch: 04/10/1985
- Tứ Trụ: năm Ất Sửu, tháng Đinh Hợi, ngày Mậu Ngọ, giờ Tân Dậu
- Lưỡng Đầu Kiềm: Ất Tân
QUẺ PHONG SƠN TIỂU SÚC |
||
Ất |
Tốn Trên |
|
Tân |
Càn Dưới |
|
THẠCH THƯỢNG NHIÊN ĐĂNG Đốt đèn trên tảng đá Làm việc chỉ có hư hành mãy may không thực tế |
Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Ất Sửu, tháng Đinh Hợi, ngày Mậu Ngọ, giờ Tân Dậu, Lưỡng đầu kiềm Ất Tân được quẻ PHONG SƠN TIỂU SÚC. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục THẠCH THƯỢNG NHIÊN ĐĂNG (Đốt đèn trên tảng đá), nghĩa là: Làm việc chỉ có hư hành mãy may không thực tế (Tác sự đản hữu hư danh hào vô thực tế )
• Thử mệnh vi nhân hữu điều độ hữu cơ mưu, Hung khâm sái 灑 lạc, Khí vũ cao minh, sinh lai ma nạn, Tằng kinh sương tuyết, Ngộ quý hữu như bất ngộ, Hữu thân khước hữu vô thân, nản hối chung đa đầu thiểu vĩ, Tiến thoái xứ hữu thuỷ vô chung (mệnh này là người điều độ có cơ mưu, trong lòng phơi bày tự nhiên sảng khoái, tánh chất cao rộng sáng suốt, sinh ra mài dũa trong tai nạn, từng trải trong sương tuyết, gặp quý nhân như chẳng gặp, có thân thích cũng như chẳng có thân thích, trong hối nản hết nhiều đầu lại ít đuôi , nơi tiến lui có trước lại chắng sau)
• Phu thê đại nghi nhân thân chí thân, Tử tức chỉ nghi đắc nhất thất nhất, Sinh nhai bất nghi thủ cựu, Hoạt kế chỉ nghi kháo 靠 tân, Huynh đệ nan hoà, phụ mẫu hữu tổn, Chỉ nhân khẩu trực thiểu bao dung, thường bị tiểu nhân chiêu đố kỵ (vợ chồng rất nên nhân cái thân mà tiến tới thành vợ chồng, con chỉ nên được một mất một, sinh sống không nên giữ cái cũ, kế sinh hoạt chỉ nên nương nhờ vào cái mới, anh em khó hòa, cha mẹ có tổn hại, chỉ vì miệng thẳng ít bao dung, thường bị tiểu nhân ganh ghét )
Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'THẠCH THƯỢNG NHIÊN ĐĂNG' (Đốt đèn trên tảng đá) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.
Tên |
Lời Thơ |
Ý Nghĩa |
Tổng Cách |
HẢI ĐỂ MINH CHÂU Minh châu hải để ẩn hàn quang Dụng ý lao tâm vãng kiến thương Cô nhạn tùy phong đa nhiễu mạc Song uyên hí thủy kiến thương mang Tư cơ cựu xứ thân nan khốc Ẩm thực tân thời phú tất khang Tá vấn bách niên hà sự nghiệp Chi đầu tiên quá kết thành song Thất gian bát giảo thắc đa trở Họa bính hư hoa vị liệu cơ Đãi đáo song uyên trùng vũ dực Bích đào hoa hạ xuất linh chi | HẠT CHÂU RƠI XUỐNG ĐÁY BỂ Hạt châu nằm dưới đáy bể dấu vẽ ánh sáng lạnh lùng Càng dụng ý nhọc lòng càng gặp sự thương tổn Chim nhạn lẻ bay theo gió thật là mờ mịt Đôi chim uyên đùa giỡn dưới nước thấy mênh mông Thân mình không thể nương tựa vào tư cơ của tổ tiên Cuộc sống nên đổi mới thì giàu có khang trang Muốn hỏi sự nghiệp trăm năm ra sao Thì xin thưa: trên đầu cành kết được hai quả Gian giảo quá nhiều thì lại càng sai lầm nhiều Bánh vẻ hoa giả không chữa được cơn đói Đến khi cặp uyên ương giao cánh mà múa Dưới cây bích đào nở ra hoa linh chi |
Cơ Nghiệp |
Minh châu hải để khởi hàn quang Dụng ý công danh biệt hưu phương Ngộ khuyển phùng xà nan lập chí Lưỡng trùng phong lộ tiệm vinh xương |
Hạt châu nằm dưới đáy bể chói ánh sáng lạnh lùng Muốn dụng tâm tìm công danh thì tìm phương khác Gặp năm Tuất năm Tỵ khó được vừa lòng Đứng trên ngọn núi trùng trùng nhưng lần lần được vinh xương |
Huynh Đệ |
Nhạn quá quan san mê viễn ngạn Cô phi tương phố hàn giang khoát Thủy hàn dạ tĩnh vô nhân chí Độc túc lư hoa yên mặc mặc |
Nhạn bay qua cửa ải bờ xa tắp Bay một mình lẻ loi đến sông Tương sông Hàn rộng rãi Nước lạnh lẽo đêm tĩnh mịch không ai đến Ngủ một mình trong đám hoa lau khói sương mờ mịt |
Sự Nghiệp |
Điền trung miêu giá tuy nhiên lập Cảnh nội vinh thân tất tự cao Nhược hướng trùng sơn doanh hoạt kế Hư danh hậu lộc tự thao thao |
Lúa cấy trong ruộng tuy đứng vững Trong cảnh đó sự vinh hiển tất càng cao Nếu hướng về phía núi non để tìm sinh kế Danh tuy hư nhưng lộc lại hậu và đầy dẫy |
Hôn Nhân |
Đơn phượng minh thời hồng nhạn khứ Song phi lãnh lạc khởi thương lương Lưỡng hiên hoa lạc đa phong vũ Trực đải vãng lai lan tự hương |
Khi chim phượng cất tiếng kêu thì chim hồng chim nhạn bay đi Đôi chim bay lặng lẽ sông thương lương nổi sóng Hoa rụng ở hai bên hiên mưa gió vùi dập Phải đợi đến khi chiều tà hoa lan sẽ tỏa hương thơm |
Con Cái |
Lao tâm sự nghiệp hùng bi mộng Lâm hành phân phó nhất song song Đường tiền hỷ kiến châu y khách Nguyệt ánh tang du quế tử hương |
Nhọc lòng luống những mong sinh con trai Lúc ra đi vẫn một lòng tự nhủ Trước nhà mừng được khách mặc áo đỏ Ánh trăng lúc chiều tà quả quế ngát hương |
Hậu Vận |
Nhân sinh lạc đắc hỷ hoan ngu Đáo xứ thân tâm bất tự tri Chính hảo nam song tương ký tố Nhất thanh kê xướng tống qui đồ |
Kiếp nhân sinh mấy lúc được vui Thân và tâm của mình cũng không rõ nơi đến sẽ ra sao Chính lúc ngồi ở cửa sổ nhìn về phía nam gởi niềm tâm sự Thì một tiếng gà gáy như muốn tiến lên đường |