Qủy Cốc Toán Mệnh
Ngày Sinh
Giờ Sinh
 


Quỷ Cốc Tử (thầy Quỷ Cốc) là nhân vật lịch sử Trung Hoa cổ đại, sinh vào khoảng cuối thời Xuân Thu, đầu đời Chiến Quốc. Được coi là ông tổ của các thuật tướng số, phong thủy, bói toán, tinh đẩu. Sáng lập ra các phái Âm Dương gia, Tung Hoành gia, Chính Trị gia, Du Thuyết gia. Ông thu nạp rất nhiều đệ tử, trong đó có 4 học trò nổi tiếng là: Tôn Tẫn (người nước Tề); Bàng Quyên, Trương Nghi (người nước Ngụy); và Tô Tần (người Lạc Dương). Tôn Tẫn và Bàng Quyên học binh pháp; Trương Nghi và Tô Tần học du thuyết. Tất cả đều là những nhân vật có ảnh hưởng to lớn tới lịch sử Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:

Nguyên văn
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.

Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .

Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Thứ Bảy 22/02/2003
- Ngày Sinh Âm Lịch: 22/01/2003
- Tứ Trụ: năm Quý Mùi, tháng Giáp Đần, ngày Bính Dần, giờ Giáp Ngọ
- Lưỡng Đầu Kiềm: Quý Giáp

QUẺ SƠN LÔI DI
Quý
Cấn Trên
Giáp
Chấn Dưới
NHAM TIỀN TẨU MÃ
Ngựa chạy sườn non
Trải hết gian khổ mới có ngày yên ổn

Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Quý Mùi, tháng Giáp Đần, ngày Bính Dần, giờ Giáp Ngọ, Lưỡng đầu kiềm Quý Giáp được quẻ SƠN LÔI DI. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục NHAM TIỀN TẨU MÃ (Ngựa chạy sườn non), nghĩa là: Trải hết gian khổ mới có ngày yên ổn (Lịch tận gian tân phương đắc an ổn chi nhật )

• Thử mệnh vi nhân đặc đạt xử sự tinh tương, nại sự thời như Di đà cam 甘 thụy, bất nại sự thời như Kim Cương cử 舉 quyền, hữu cương nhu vô siểm 諂 khúc 曲, thị phi bạn túc danh lợi câu thân, nhi nữ bất tri tâm, thân tình tận vô nghĩa, chiêu tư 思 mộ toán 算 ngũ canh chỉ đắc nhị canh miên, thiên phương bách kế, tam hạn hoàn tha nhất hạn hảo, phong sương tảo lịch thiên thiên biến, phương tố thanh nhàn tự tại nhân
• Mệnh này là người được cái đặc biệt, khi sự cần mẫn nhẫn nại thì như là Phật Di Đà ngủ say, khi sự chẳng nhẫn nại thì cứ như thần Kim Cương giương nắm đấm ra, có cứng rắn có mềm mỏng không nịnh nọt ton hót cong queo bậy bạ, phải trái vướng chân lợi danh bực mình, con trai con gái chẳng hiểu lòng, người thân tình đều hết thẩy chẳng có tình nghĩa, sáng lo nghĩ chiều mưu toan, năm canh giờ chỉ ngủ được hai canh giờ, phong sương sớm trải ngàn ngàn khắp chốn, rồi mới được làm người tự tại thanh nhàn.

Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'NHAM TIỀN TẨU MÃ' (Ngựa chạy sườn non) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.

Tên
Lời Thơ
Ý Nghĩa
Tổng Cách
THU DẠ NGUYỆT HOA
Nguyệt hoa thu lý lãnh trung thanh
Cô nhạn tầm quần dạ bán minh
Phụ mẫu vọng vân tòng thử khứ
Đệ huynh lưu thủy hướng đông khuynh
Vãng lai an lạc thân đầu ổn
Tảo tuế bôn trì sự vị thành
Mạc tiếu xuân quang lâm thưởng hậu
Mẫu đơn hoa hạ thính đề oanh
ĐÊM THU TRĂNG ĐẸP
Trăng soi ngàn dặm càng lạnh càng thấy trong
Nhạn lẻ tìm bầy nửa đêm cất tiếng gọi
Từ đây trở đi trông cha mẹ như áng mây chiều
Anh em như nước chảy về đông không trở lại
Về già vui vẻ tấm thân yên ổn
Tuổi nhỏ rong ruổi việc chưa thành
Xin chớ cười sau khi thưởng thức ánh xuân quang
Dưới hoa mẫu đơn nghe oanh hót
Cơ Nghiệp
Nhủ yến ly sào sấn dực thành
Điều lương họa đống vãng lai khinh
Thừa long vũ hướng thiên biên khứ
Tổng lảnh thiên biên vạn lý trình
Chim yến non lìa tổ vỗ cánh bay
Chạm xà vẽ cột đi lại nhẹ nhàng
Nương gió bay về phía bên trời
Nhận lãnh con đường xa muôn dặm ở chân trời
Huynh Đệ
Nhạn phi đỉnh túc quá giang hồ
Nhất chích bi minh tại đế đô
Hồi thủ xuân quang tống qui tái
Giang nam mai tín định ưng vô
Nhạn bay thế chân vạc qua sông hồ
Một con vừa bay vừa kêu tại đế đô
Quay đầu nhìn ánh sáng xuân tiến về nơi quan tái
Tin hoa mai ở Giang nam chắc là không có
Sự Nghiệp
Kỵ ngưu tiệm tiệm đăng vân lộ
Ngộ thử chung tu kiến chủ ông
Đề xiết bình mông thành vĩ nghiệp
Trì cung trục lộc họa bình trung
Gặp năm Sửu lần lần sẽ đi lên đường mây
Đến năm Tý rồi mới gặp được chủ ông
Dìu dắt che chở thành sự nghiệp lớn
Cầm cung đuổi hươu trong tấm vẽ
Hôn Nhân
Minh nguyệt chiếu song xuân tịch mịch
Cầm điều nhất khúc chính thê lương
Uyên ương phi hướng tiêu tương ngoại
Âu lộ phân phân hạ thảo đường
Trăng soi cửa sổ xuân lạnh lẽo
Gảy một khúc đàn thật thảm thương
Cặp uyên ương bay ngoài cõi tiêu tương
Cò vạc lố nhố chốn ao cỏ
Con Cái
Đào hoa linh lạc tùy phong vũ
Thệ dã như tư bất khả kỳ
Thùy tín hậu viên hoa tái phát
Chi đầu nhất quả khước hy kỳ
Hoa đào rơi rụng theo mưa gió
Qua đi như thế làm sao định được hạn kỳ
Ai ngờ vườn sau hoa lại nở
Đầu cành một quả rất lạ kỳ
Hậu Vận
Mãn nhãn kim châu quan bất túc
Thời hồ vận hạn bất tu vân
Chung minh lậu tận mộng hà tại
Đỗ vũ nhất thanh thôi mộ vận
Trước mắt đầy vàng ngọc nhìn không xiết
Do thời vận chẳng nên nhiều lời
Chuông kêu hồ cạn mộng tìm đâu
Một tiếng chim Đỗ vũ như dục mây chiều 




hoẠbÃo người cung Nhân Mã Huyền quan khởi công Nốt ruồi VĂN xem tướng số qua nốt ruồi giáºi tá µ Hoà cử to Phong thủy số điện thoại hoáºn bùa chú pha chòm sao sợ yêu Dần số 7 cam nhÃy cân má ¹ tử vi cáºu Mối sách đường Công danh Tiểu Hội tuổi dần Đạo tÃÅŸÄi bạch Tử Vi Năm sinh Äêm メ ス theo phong thủy cần ngay sinh ÐнÐÐµÐºÑ chử Cải bộ vị dịch mã ĐẶT TÊN con đường