Qủy Cốc Toán Mệnh
Ngày Sinh
Giờ Sinh
 


Quỷ Cốc Tử (thầy Quỷ Cốc) là nhân vật lịch sử Trung Hoa cổ đại, sinh vào khoảng cuối thời Xuân Thu, đầu đời Chiến Quốc. Được coi là ông tổ của các thuật tướng số, phong thủy, bói toán, tinh đẩu. Sáng lập ra các phái Âm Dương gia, Tung Hoành gia, Chính Trị gia, Du Thuyết gia. Ông thu nạp rất nhiều đệ tử, trong đó có 4 học trò nổi tiếng là: Tôn Tẫn (người nước Tề); Bàng Quyên, Trương Nghi (người nước Ngụy); và Tô Tần (người Lạc Dương). Tôn Tẫn và Bàng Quyên học binh pháp; Trương Nghi và Tô Tần học du thuyết. Tất cả đều là những nhân vật có ảnh hưởng to lớn tới lịch sử Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:

Nguyên văn
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.

Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .

Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Chủ Nhật 09/08/1981
- Ngày Sinh Âm Lịch: 10/07/1981
- Tứ Trụ: năm Tân Dậu, tháng Bính Thân, ngày Kỷ Mùi, giờ Quý Dậu
- Lưỡng Đầu Kiềm: Tân Quý

QUẺ THIÊN PHÚC TINH
Tân
Càn Trên
Quý
Cấn Dưới
CƠ ĐIỂU ĐẦU LÂM
Chim đói nương mình ở rừng
Làm ơn không cần trả

Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Tân Dậu, tháng Bính Thân, ngày Kỷ Mùi, giờ Quý Dậu, Lưỡng đầu kiềm Tân Quý được quẻ THIÊN PHÚC TINH. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục CƠ ĐIỂU ĐẦU LÂM (Chim đói nương mình ở rừng), nghĩa là: Làm ơn không cần trả (Thi ân bất cầu nhân báo )

• Thử mệnh ngọc đường chí diện kim mã chi tinh, bình sinh y lộc phong hậu, đáo lão thoái thần trọng đại, thi ân xứ khuy trung khất khuy, chỉ nhân độ lượng khoan hồng, bách sự thiểu ưu sầu bất so my
• Mệnh này là bóng sáng của sao ngọc đường kim mã, đời thường áo cơm tiền tài không thiếu, đến già gặp phải thoái thần rất lớn, thi ơn chỗ nào thiếu thốn thì chỗ đó trở thành vô ơn, chỉ vì là người có tấm lòng rộng rãi chất chứa tha thứ, cho nên trăm sự ít lo buồn cũng không cau mày nhăn nhó.

Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'CƠ ĐIỂU ĐẦU LÂM' (Chim đói nương mình ở rừng) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.

Tên
Lời Thơ
Ý Nghĩa
Tổng Cách
BẢO KIẾM TRÙNG MA
Xuy mao bảo kiếm thị kim tinh
Trần thổ nê mai ám bất minh
Bài thạch tái ma long hổ địa
Não quang giao xạ đẩu ngưu tinh
Giang biên nhạn trận đoạn phục tục
Uyển nội hoa chi lạc hựu vinh
Nhất đán quan san phùng cự nhãn
Vạn hoa thâm xứ mã tê thanh
GƯƠM BÁU MÀI LẠI
Gươm báu thổi sợi lông qua cũng đứt thật là tinh luyện
Bị bụi đất bám đầy mờ mà không sáng
Đem đá mài lại ở nơi rồng cọp
Hào quang chói lọi đến sao đẩu sao ngưu
Bầy nhạn bên sông bay đứt lại nối
Hoa trong vườn đã rụng lại tươi
Một ngày nào đó ở chốn quan san gặp người mắt xanh
Nghe tiếng ngựa hý trong đám muôn hoa
Cơ Nghiệp
Bình sinh chí khí dữ thiên tề
Phòng hiểm đăng thiên vị hữu thê
Nhược vấn tang du điền địa khoát
Ngưu long xà mã diệc tương kỳ
Chí khí thuở bình sinh cao ngất trời
Đề phòng nguy hiểm vì lên trời chưa có thang
Muốn hỏi ruộng dâu vườn đất rộng được bao nhiêu
Xin hẹn kỳ vào năm Sửu, năm Thìn, năm Tỵ, năm Ngọ

Huynh Đệ
Thiên biên nhị nhạn các phân phi
Ngô Việt tiêu tương chỉ tự tri
Hồi thủ bạch vân cô lộ hạ
Bạch tần hồng lục ánh tà huy
Bên trời đôi nhạn đều chia lìa
Ngô Việt hay tiêu tương chỉ biết một mình
Quay đầu thấy mây trắng còn cò lẻ loi bay sà xuống
Rau tần rau lục phản ánh lúc chiều tà
Sự Nghiệp
Đổ quyên chi thượng oán xuân qui
Nhân hướng giang tân sự sự nghi
Mãn nhãn công hầu tương ứng hợp
Phượng hoàng thê ổn bích ngô chi
Chim đổ quyên ở trên cành oán hận mùa xuân trở về
Người nên hướng về bến sông mọi việc đều nên (làm)
Trước mắt công hầu đều ứng hợp
Chim Phượng hoàng đậu yên ổn trên cành ngô biếc
Hôn Nhân
Bỉ mỹ nhân hề thiên nhất phương
Di đào tái hạnh bàng hinh hương
Thảo đường âu lộ đa hoan hợp
Cúc phố sương nùng mộng nhất trường
Người đẹp kia ơi ở một phương trời
Dời đào trồng hạnh tỏa hương thơm
Cò vạc ở ao cỏ thật vui vẻ sum họp
Vườn cúc đẫm sương một trường xuân mộng
Con Cái
Bàn đào chi chi quế hoa hương
Nhất bán thanh hoàng nhất bán thương
Kham tiếu lý đình chu tử vãng
Khuê chương quan miện liệt thành hàng
Nhiều trái bán đào cùng hoa quế tỏa mùi hương
Một nửa xanh vàng một nửa tổn thương
Tức cười thay màu đỏ màu tía ở trước sân hơi muộn
Ngọc khuê ngọc chương mũ miện để thành hàng
Hậu Vận
Tá vấn long xà kê khuyển hầu
Trường giang đắc thủy thệ đông lưu
Cẩm phàm qui khứ đông nam thượng
Bản hữu cao nhân tá nhất trù
Muốn hỏi thăm những năm Thìn, năm Tỵ, năm Dậu, năm Tuất
Sông trường giang nước chảy về đông
Buồn gấm đi về phía đông nam
Nhờ có cao nhân mách cho một nước




hÃÆ Kim Ngưu giáp ất hợi háºu Cổ ト黛 Äác Tử Vi trâm Lễ hội bồ tát BÓI BÀI người có tướng giàu sang Ý nghĩa của việc cúng gà trống trong dùng Thiên lương tu phà Đời phong thủy khi mua xe Phòng Sách thÃ Æ Long Thụ Bồ Tát Mặt vận mệnh người tuổi Kỷ Hợi đào hoa Giai ma giác mo năm sinh 1991 mệnh gì dinh trúng Đạo 排盤 cÃch sao thiên luong câu Tháng cÃnh Sao Mộ khó nhìn ÐеÐуÐÑŒÑÐÑÑÐоÐÑкРSAO PHÃ Æ Phòng ngủ mộ Giáng Phà Chọn vợ Ân đoán