Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.
Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .
Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Thứ Bảy 24/12/1977
- Ngày Sinh Âm Lịch: 14/11/1977
- Tứ Trụ: năm Đinh Tỵ, tháng Nhâm Tý, ngày Ất Mão, giờ Tân Tỵ
- Lưỡng Đầu Kiềm: Đinh Tân
QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI |
||
Đinh |
Khôn Trên |
|
Tân |
Càn Dưới |
|
QUẬT TỈNH CẦU TUYỀN Đào giếng tìm nguồn Hết sức kinh doanh sau có kết quả |
Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Đinh Tỵ, tháng Nhâm Tý, ngày Ất Mão, giờ Tân Tỵ, Lưỡng đầu kiềm Đinh Tân được quẻ ĐỊA THIÊN THÁI. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục QUẬT TỈNH CẦU TUYỀN (Đào giếng tìm nguồn), nghĩa là: Hết sức kinh doanh sau có kết quả (Kiệt lực doanh mưu chung tất hữu hoạch )
• Thử mệnh năng thố trí hội an bài cần cẩn vi căn bản, tân khổ tố nhân gia, mệnh phạm thoái thần, đương tiến bộ thời bất tiến bộ, đa ưu nghi xứ hảo khai hoài, bôn ba lao lực tảo đạp phá kỷ song hài, hoan hỷ thành thu túc, đoan chính tọa lịch tà, huynh đệ thành Ngô Việt, phụ mẫu thị oan gia, chiêu tư mộ tiếu, thất kiện sự : sài, mỗ, du, liêm, thố, tương, trà, yếu cầu an lạc pháp, tu hoán biệt kinh nhai.
• (Mệnh này thì ưa thi thố tài trí thích an bầy, siêng năng cẩn thận làm căn bản, là người làm việc tân khổ, mệnh phạm Thoái thần nên đang tiến bước được thì lại trở ngại không tiên lên được nữa, nơi nhiều lo lắng nghi ngờ thì lại mở ra tốt đẹp, sớm “còn trẻ” đã bôn ba khó nhọc, bươn chải đi rách cả mấy đôi giầy, lúc vui vẻ biến thành lẩm nhẩm “than thở”, “là người” đoan chính ngay thẳng “lại” ngồi nơi lệch nghiêng cong vẹo, anh em biến thành xa cách như hai nơi đất Ngô đất Việt đối nghịch nhau, cha mẹ ấy lại là oan gia, sáng lo âu nghĩ ngợi chiều lại vui cười về bẩy sự kiện: củi, gạo, trà, tương, muối, dấm, dầu, rất cần tìm phương pháp an vui, sinh nhai kế sống nên thay đổi khác “thay đổi công việc đang làm thì được an vui”)
Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'QUẬT TỈNH CẦU TUYỀN' (Đào giếng tìm nguồn) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.
Tên |
Lời Thơ |
Ý Nghĩa |
Tổng Cách |
NGUYỆT ÁNH PHÙ VÂN Tự cổ nhân sinh bĩ tắc thông Phù vân thiên sử nguyệt mung lung Hoa khai bán dạ phong nghi tĩnh Nhạn đồ trường giang ảnh lạc không Mạc hướng cố viên tài thảo mộc Khả lai u địa chủng thanh tùng Tri quân mệnh chí tĩnh tuyền hạ Nhất thụ đào hoa lưỡng thụ hồng | TRĂNG CHIẾU MÂY NỔI Xưa nay kiếp nhân sinh bĩ quá hóa thông (1) Vì đám mây trôi nổi cho nên trăng lờ mờ Nửa đêm hoa nở gió yên tĩnh Nhạn bay qua trường giang bóng rơi trong không Chớ hướng về vườn cũ mà trồng cây cỏ Nên đến chổ u tịch mà trồng cây thanh tùng Biết mạng nhà ngươi đến chổ giếng suối Có một cây hoa đào hai cây hồng (1) Bĩ quá hóa thông: cực rồi đến sướng |
Cơ Nghiệp |
Sơ trị ưu nguy vận vị thông Hữu như nguyệt xuất bị vân mông Tri âm nhất khúc xuất thiên ngoại Đề xiết tiên lang ngộ chủ ông |
Xưa gặp nguy hiểm vì vận hạn chưa thông Ví như trăng vừa mới ló bị mây che khuất Một khúc tri âm bay ra ngoài trời Dắt tay chàng tiên gặp ông chủ |
Huynh Đệ |
Hàn nhạn lưỡng chích phi khứ cấp Cô hồng độc tự lệ trường thiên Bạch tần hồng lục lư hoa chủ Mãn cục giang sơn nhiệm túy miên |
Đôi nhạn lạnh lùng bay đi gấp Chim hồng lẻ loi kêu trong bầu trời rộng Ở bến hoa lau có rau tần rau lục Trước mắt giang sơn tha hồ ngủ say |
Sự Nghiệp |
Thân nhược Mã Ngưu phùng Giáp Bính Định tri xà tẩu dã vi nan Kiến nhân tá thế cầu danh vị Phượng trục loan phi xuất hiểm quan |
Thân này đến năm Ngọ năm Sửu hoặc năm Giáp năm Bính Chắc chắn gặp năm Tỵ rất khó khăn (1) Thấy có người giúp đỡ để cầu công danh (2) Chim phượng đuổi chim loan bay ra khỏi cửa ải hiểm trở (1) Đây là một bài thơ xin hiểu như thế này: Năm Tỵ sẽ gặp khó khăn (vì Can Giáp và can Bính không thể đi với năm Tỵ được). (2) Năm Ngọ năm Sửu và năm Giáp năm Bính sẽ có người giúp đỡ |
Hôn Nhân |
Phong cấp xuân hàn tiểu vũ quan Hạm tiền oanh ngữ vị tương hoài Thu thâm âu lộ song song thịnh Vãng tể uyên ương hí bích ba |
Ngày xuân lạnh mưa phùn gió bấc Trước sân oanh hót chưa có tiếng họa lại Thu sắp tàn cò vạc sóng đôi tốt đẹp Chiều tạnh ráo cặp uyên ương đùa sóng biếc |
Con Cái |
Tu tri nhân tại thanh tùng hạ Kham thán hoa tàn mãn địa hồng Thâm kính tang du chi quế thịnh Tường đông nhất quả túy xuân phong |
Nên biết người đứng dưới cây thanh tùng Đáng tiếc hoa rụng đầy mặt đất Bên lối đi cây chi cây quế đều tươi tốt Đầu tường phía đông có một quả như say sưa với gió đông. |
Hậu Vận |
Phương ngộ Canh Thân kiêm Bính Kỷ Phùng xà thử nhật khả nam qui Kỷ niên vãng sự câu thành mộng Lưu thủy lạc hoa văn tử qui |
Gặp năm Canh năm Thân và năm Bính năm Kỷ Gặp Tỵ thì có thể đi về hướng nam Việc mấy năm qua đều thành giấc mộng Nước trôi hoa rụng nghe tiếng chim tử qui hót |