Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.
Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .
Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Thứ Tư 05/08/1992
- Ngày Sinh Âm Lịch: 07/07/1992
- Tứ Trụ: năm Nhâm Thân, tháng Mậu Thân, ngày Quý Sửu, giờ Quý Hợi
- Lưỡng Đầu Kiềm: Nhâm Quý
QUẺ THỦY SƠN KIẾN |
||
Nhâm |
Khảm Trên |
|
Quý |
Cấn Dưới |
|
BỒN NỘI PHÙ DUNG Hoa phù dung trong chậu Bề ngoài tuy đẹp nhưng quan hệ đến thực dụng |
Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Nhâm Thân, tháng Mậu Thân, ngày Quý Sửu, giờ Quý Hợi, Lưỡng đầu kiềm Nhâm Quý được quẻ THỦY SƠN KIẾN. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục BỒN NỘI PHÙ DUNG (Hoa phù dung trong chậu), nghĩa là: Bề ngoài tuy đẹp nhưng quan hệ đến thực dụng (Ngoại mạo tuy giai vô quan thực dụng )
• Thử mệnh ngũ hành an ổn, tứ tọai hòa bình, tài bạch hiện thành, tư cơ thủ cựu, danh khoa lý hạng đức dự hương lân, chỉ nhân tinh phạm Thiên tai hợp kiến thân sinh ám tất, tài bạch dị tán nhất sinh đa thị đa phi, tuy nhiên tác sự thoái thần đa, chung cứu hoàn tha sinh phú quý.
• Mệnh này năm hành yên ổn bốn trụ hòa bình, tiền bạc hiện thành cơ nghiệp riêng giữ lại cái cũ, danh khoe xóm ngõ đức khen làng mạc, chỉ vì mệnh phạm sao Thiên tai, hợp thấy thân thể sinh ra ám tật, tiền bạc dễ tan, nhất sinh nhiều phải nhiều trái, tuy thế nhiều thoái thần, cứu xét về sau lại khác mà sinh ra phú quý.
Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'BỒN NỘI PHÙ DUNG' (Hoa phù dung trong chậu) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.
Tên |
Lời Thơ |
Ý Nghĩa |
Tổng Cách |
HOA LIỄU ĐỒNG VINH Vạn lý giang sơn đông phục tê Tòng tiềng thế sự tận thành phi Phong xuy hồng nhạn ly quần khứ Vũ đã uyên ương đắc tự phi Xuân tảo hoa khai nan kết tử Thu thâm diệp lạc độc lưu chi Tịch dương tà xứ phong quang hảo Chỉ khủng niên lai bất đãi thì | CÀNH
HOA NHÀNH LIỄU CÙNG TƯƠI Muôn dặm non sông đông lại tây Việc đời từ trước đều hóa hỏng Gió thổi hồng nhạn phải chia đàn Mưa rơi uyên ương phải bay đi Xuân sớm hoa nở khó kết trái Cuối thu lá rụng chỉ trơ cành Phong cảnh lúc chiều tà thật đẹp Chỉ sợ năm qua chẳng đợi thời |
Cơ Nghiệp |
Trùng lý
viên lâm trưởng cự tài Kinh sương đối lộ phí bồi tài Nhất triêu tại tượng gia cân phủ Đoạn tước quan hoa sáng phụng đài |
Sửa lại
vườn tược để trồng cây lớn Trải hết sương móc tốn bao công vun xới Một hôm gặp thợ giỏi búa rìu Chặt hết để xây dựng lầu rồng rực rỡ |
Huynh Đệ |
Phiêu linh
tam nhạn lư hoa khứ Nhất chích phong xuy hạ viễn châu Lĩnh thượng hoàng mai hoa chính phát Tiểu lân nhật vọng vấn qui chu |
Trôi nổi
ba con chim nhạn bay về phía rừng lau Một con bị gió thổi sa xuống bãi cát Trên núi lạnh cây mai đang nở hoa Ban ngày trên lầu nhỏ hỏi thăm chiếc thuyền trở về |
Sự Nghiệp |
Mạc địa
quí nhân lai cử vấn Tương phùng thiên lý hoạch hoàng kim Lưỡng trùng kỳ ngộ túc tâm nguyện Tức lộc giang biên hữu hảo âm |
Hết đường
tự nhiên cố quý nhân đến hỏi han Ở nơi ngàn dặm gặp nhau thì được vàng ròng Hai lần gặp gỡ thỏa nguyền ước Tức là hươu ở chốn ven sông thì có tin vui |
Hôn Nhân |
Hoa phát
hốt nhiên kinh xậu vũ Nhất lôi chấn động hữu uyên ương Bạch tần hồng lục tương y xứ Minh nguyệt thanh phong dạ cánh trường |
Hoa nở
chợt gặp mưa lớn nên kinh hãi Tiếng sét vang rền cặp uyên ương phải chia đôi Nơi có cỏ tần cỏ lục thì vẫn như xưa Trăng sáng gió trong đêm lại dài |
Con Cái |
Hạm bạn
hữu hoa khai sổ đóa Vãng lai nhất quả ký chi đầu Thanh hoàng tương giáng đa phong diệp Phúc lộc nhương nhương tự vị hưu |
Bên sông
có mấy bông hoa nở Chiều về một quả gởi đầu cành Xanh vàng xen kẽ nhiều ong bướm Phúc lộc dồi dào mãi chẳng thôi |
Hậu Vận |
Vận chí
thừa ngưu kỵ mã khứ Thủy kê chung nhạ nhất trường sầu Cao sơn lưu thủy tri âm thiểu Vũ hậu ngư ông vãng vị hưu |
Vận đến
vào năm Sửu năm Ngọ Gà nước (Dậu) rồi đây lắm chuyện buồn Non cao nước chảy ít kẻ tri âm Mưa tạnh chiều rồi mà ngư ông chưa nghĩ |