
 
                        Đối với các nước   khác châu Á, đại từ nhân xưng có 3 ngôi: Người nói, 
người nghe và người, vật, sự   việc được đề cập đến trong câu nói. Chỉ 
có sáu từ cơ bản nếu dịch mộc mạc ra   tiếng Việt là: tao, mày, nó, 
chúng nó, chúng tao, chúng   mày.
          
   
          Ví dụ: "Bố mẹ cháu bảo cháu đưa ba cháu sang thăm   hai cụ". 
Câu này nếu dịch từ đối ra tiếng nước ngoài thì như sau: "Chúng nó bảo  
 tao đưa nó sang gặp chúng mày".
   
          ở Việt Nam ta đã quen   từ nhỏ, đáng tuổi ông thì gọi là ông, 
đáng tuổi bác thì gọi là bác không đươc   "mày tao chí tớ", "cá mè một 
lứa". Chúng ta nên thông cảm với người nước ngoài   học tiếng Việt. Đại 
từ nhân xưng tiếng Việt rất đa dạng phong phú nhưng cũng rất   phúc tạp,
 điều khó khăn phức tạp nhất là, ngay trong đại từ nhân xưng của ta đã  
 mang sắc thái tình cảm, thể hiện sự yêu thương tức giận, kính trọng, 
khinh ghét,   khách sáo, thân mật...
          
   
          Trong cách xưng hô của ta có   phân biệt tôn ti trật tự rõ 
ràng. Cháu bé hỏi rằng: Tại sao ông bảo cháu thưa   bẩm, thế mà cháu gọi
 ông ông lại không thưa bẩm cháu. Cháu cũng không hiểu sao   cha mẹ gọi 
con thì gọi thằng Giáp con ất được còn con gọi tên cha mẹ thì không   
được. Tại sao ông chú già rồi lại còn gọi là "ông   trẻ".
          
   
          Cách dùng từ để xưng hô của ta còn tuỳ thuộc   vào mức độ 
thân sơ giữa người nói và người nghe. Ví dụ, thật thân tình bạn bè   gọi
 nhau bằng mày tao, hắn thì quí; gọi nhau bằng thưa quí anh hoặc bằng 
ông thì   coi như giễu cợt kích bác nhau. Ngược lại, mới quen biết sơ sơ
 mà mày tao thì   coi như bất lịch sự, đôi khi nghe bực mình bỏ đi không
 thèm trả lời. Cụ già và   Lão già đồng nghĩa nhưng khi nói "Tôi hỏi cụ 
già" thì rất khác "Tôi hỏi lão   già". Cũng có trường hợp "lão" chưa hẳn
 đã già, mà là cách gọi thân   mật.
          
   
          Nếu có quan hệ họ nội, họ ngoại thì gọi theo quan   hệ thân 
thuộc gắn bó tình thân thiết hơn; mặc dầu ít tuổi hơn mình nhưng ngang  
 hàng cha mẹ mình thì gọi bằng chú, bác, cô, dì theo đúng vai vế trong 
họ. Ngược   lại, đối với người đã lớn tuổi mặc dầu là bậc cháu nhưng để 
cho khỏi "chướng"   nên gọi bằng anh, ông, bác ông... Coi như gọi thay 
con, cháu mình, như vậy thanh   nhã và lịch sự hơn.
          
   
        Thuần tuý quan hệ xã hội, không có   quan hệ họ hàng nhưng theo 
phép xã giao "trưởng nhất tuế vi huynh, trưởng thập   tuế vi phụ" (hơn 
một tuổi làm anh, hơn mười tuổi làm cha), tức là tôn lên ngang   bằng 
với cha mà gọi chú, bác. Đây là phép tôn xưng.                    
                    
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (XemTuong.net) 


