Tuy
nhiên, có nhiều tác giả cho rằng nhiều tương sinh chưa hẳn là tốt. Trái lại, có
đối khắc trong các yếu tố chưa hẳn đã là xấu. Quan điểm này nói lên vấn đề nghịch
hợp của qui luật Âm Dương Ngũ Hành. Ví dụ như có người dẫn chứng rằng người Mệnh
Thủy cung Mệnh đóng ở Thủy, tại đó có nhiều sao Thủy hay sao Kim (Kim sinh Thủy)
thì không chắc đã hay, dù các yếu tố tương sinh về Âm Dương Ngũ Hành đều có lợi
cho đương mệnh. Lý do đưa ra quá nhiều nước thì làm úng Bản Mệnh, chỉ cần một số
lượng nước vừa phải Bản Mệnh mới tồn tại và hưng vượng. Một ví dụ về đối khắc
cho rằng Bản Mệnh là Hỏa đóng ở cung Kim, thông thường thì đối khắc, nhưng
chính nhờ Hỏa khắc Kim mà Kim mới thành đại dụng (kim khí nhờ lửa mới được đúc
rèn thành vật dụng thiết yếu). Cho nên, việc đối khắc này lợi cho đương số chớ
không có hại. Một ví dụ khác nữa cho rằng trong một cung mà có sao Kim, sao Mộc,
tất sao Mộc bị sao Kim khắc chế, nhưng, nếu có cả sao Thủy đồng cung thì, theo
luận cứ của vài tác giả, sao Mộc sẽ vô hại, vì lúc bấy giờ, Kim bận lo sinh Thủy
nên không lo khắc Mộc ! Qua những
ví dụ đó, ai cũng thấy rằng qui luật hợp hay khắc của Âm Dương Ngũ Hành rất phức
tạp, khả dĩ đưa đến một mê hồn trận không có lối thoát, vì chưa ai giải rõ được
số lượng yếu tố tương sinh vừa phải, số lượng yếu tố tương khắc vừa đủ, trường
hợp nào khắc mà hay, trường hợp nào sinh mà dở, trường hợp nào khắc mà không khắc,
lý do nào bị khắc mà hóa ra không bị khắc v.v… Trí óc
con người có thể hình dung được sự bất lợi của thái quá đối với bất luận yếu tố
nào của con người. Nhưng cho đến nay, ngay cả trong lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành
và trong quan điểm của những tác giả thực nghiệm, chưa thấy có qui luật nào nói
lên mức độ trung dung vừa phải. Dường như đây là vấn đề lượng định của mỗi cá
nhân. Trí óc
con người cũng có thể hình dung được rằng sự khắc chế có nhiều cái hay cho con
người và đời người, cụ thể như nghĩ rằng nghịch cảng có thể là một động lực
thúc đẩy con người đấu tranh, do đó, sự đối khắc xét ra có ích để cho con người
được trui rèn, ngõ hầu trở thành lão luyện, từng trải. Nhưng lối hình dung như
vậy chỉ đúng được 1 phần vì 2 lẽ: -
Nghịch cảnh có thể
làm lụn bại chí đấu tranh của cá nhân nếu đó là nghịch cảnh lớn và liên tiếp,
quá sức chịu đựng của cá nhân. -
Mức độ nặng nhẹ của
nghịch cảnh xuất phát từ sự đối khắc ngũ hành không thể qui định thích đáng cho
mọi người và cho mỗi cá nhân. Vẫn có trường hợp 2 đối khắc ngũ hành là vừa đủ
cho cá nhân này lại quá nặng cho một cá nhân khác. Một lần
nữa, đây cũng là vấn đề lượng định riêng của người giải đoán. Đối với
ví dụ sao Kim bận sinh cho sao Thủy nên không lo khắc chế sao Mộc đồng cung,
thì đây quả là một lý luận đúng nửa chừng vì có người đối nại rằng sao Kim có
thể chỉ lo khắc sao Mộc mà bỏ qua sao Thủy, hoặc là sao Thủy vì lo phù sinh cho
sao Mộc nên sao Mộc hưng vượng sẽ không bị sao Kim khắc chế? Thành thử trên ví
dụ đó, nhiều hướng luận đoán chớ không phải chỉ có một lý luận. Ai khẳng định tức
là rơi vào phiến diện, từ đó có thể sai lầm. Cho
nên, vấn đề nghịch hay hợp giữa các hành còn thiếu sót. Không lý thuyết nào đủ
sức đưa ra những lượng định (appréciation quantitative) và những phẩm định
(appréciation qualitative) thỏa đáng, khả dĩ làm được việc này. Tất cả đều lệ
thuộc sự thẩm định riêng rẽ của người giải đoán, may thì đúng, rủi thì sai. Đây
là một nhược điểm trầm trọng của khoa Tử -Vi mà hậu quả sẽ đưa đến nhiều tranh
chấp nan giải.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (XemTuong.net)