Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số
người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá
mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua
con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều
may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác
tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi
tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều,
hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ
lỗi cho mình "Báng".
Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã
đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro!.
ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí
tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những
hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng...
chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu
quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều
bí ẩn. thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên
ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã"
(cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình
ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy,
không có sách, quỷ thần cũng không trách).
Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự
nhiên đưa tới; có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp
tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất
nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu
nhiên cũng có yêú tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc
cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày
nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải chánh giờ nào...Đa số bà
con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều
khiêng đó không ảnh hưởng gì mâý tới công việc cũng như kinh tế...
Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám
ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần
đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở
các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở
cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những
công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán
một cách, chẳng biết tin ai. Đã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì
việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay
để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết
về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu,
viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo
thị hiều thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có
cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có
tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu...Cùng một ngày, cuốn này,
ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm
người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin
vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?
Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư
liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan kế
Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục"xuất bản năm 1915, tái bản năm
1990 tại nhà xuất bản thành phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ
giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các
bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng
thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người
một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn
được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày
nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi
địa phương.
Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán
mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều
người bảo: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu,
thực hư ra sao?
Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý. "Bắt mạch" đối
tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm
dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều
khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.
Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều
thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi
mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra
rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp
ngàyđêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu,
đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh
học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến
đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp
đi lặp lại khá đều đặn).
Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến
đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng
áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người
bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen
cũng thườg lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời
gian bài tiết cóc- ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn
hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ
hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối
với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở
bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học
An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy
làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.
Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết
tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm,
người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người
diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu
kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ chí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu
kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc
trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số
ngày cuối chu kỳ) thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều
chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm
chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh:
Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng
trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày
thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp
trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba
chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.
Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có
thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp
điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ.
Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo
vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp
giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những
"ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã
giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn
giao thông đã giảm hản 50%.
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các
quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở
Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn,
giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ
kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ
tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động
chức năng của cơ thể.
(Bác sĩ Vũ Định- Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)
Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.
Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh
Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các
quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rẳng: "Chôn năm nay tất hại người
tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?".
Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi
ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang
năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa
lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc
đó thội, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương".
Rốt cuộc vẫn cử hành lễ an táng.
Xem ngày kén giờ
Việc cưới xin,
việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai
trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc
thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an táng... việc gì
thường cũng bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hành, hoặc khai
bút, khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Đến những việc vụn vặt như cạo
đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận
quá trong kén ngày.
Kén thì phải xem
đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngày
mồng một tháng chạp, Hoàng Đế ngự điện khai trào, các quan Khâm thiên
giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi...
... Ban lịch
trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng
thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân hành được đều nhau.
Đại để ngày nào
có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ...
hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày tốt.
Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên
hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.
Kiêng nhất là
ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày
là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng
nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba
ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh
những ngày ấy.
Những ngày ấy là:
Ngày 13 tháng giêng Ngày 11 tháng hai Ngày 9 tháng ba Ngày 7 tháng tư Ngày 5 tháng năm Ngày 3 tháng 6 Ngày 8, 29 tháng bảy Ngày 27 tháng tám Ngày 25 tháng chín Ngày 23 tháng mười Ngày 21 tháng một Ngày 19 tháng chạp
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thành.
Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi.
Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu
Nói qua mâý việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.
Cưới
xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy.
Làm nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và
ngày kim lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức
phá, trực bế. An táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí
quan phù...
Còn như kén giờ
thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi
cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoàng
đạo. Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:
Dần, thân gia tý; mão dậu dần
Lại cần phải nhớ hai câu:
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân;
Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Đạo viễn kỷ thời thông đạt
Lúc đánh giờ
trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở
bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt,
dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo...
Lộ dao hà nhật hoàn trình.
... Xét phép chọn ngày, từ
đời Đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn
ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. Nội sự là việc trong như
việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm can là các ngày: ất, đinh,
kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp, giao thiệp... thì
dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như
thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc cứng
cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa
hợp với nhau mà thôi.
Đến đời sau các
nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày tốt, ngày sao xấu,
ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại có
giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem
ngày, kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Đã đành làm việc gì cũng
nên cẩn thận, mà chọn từng ngày, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu.
Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở
người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay ngày xấu. Nếu cứ chọn ngày giờ mà
nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao ?
(Trích "Việt Nam phong tục" Phan Kế Bính)
Chú giải bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính
Đọc bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính, bạn đọc trẻ tuổi thời nay sẽ có một số thắc mắc:
Phan Kế Bính là
một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán
học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong
công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín
quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng
mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành,
an táng nên tìm ngày gì, kị ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.
Trong bài có nói
đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt
trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén
ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị
bịp.
Theo thiển ý
chúng tôi: Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong
thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hành nhiều năm và nhiều người
biết tiếng Hán xenm được.
Nhằm giải đáp
những thắc mắc trên và giúp bạn trẻ thời nay hiểu thêm về một số vấn đề
mà học giả Phan Kế Bính đã đề cập tới, trong phần chú giải dưới đây,
chúng tôi dựa theo những tư liệu bằng tiếng Hán đã được lưu truyền như
"Vạn niên lịch", "Ngọc hạp kỷ yếu", "Chư gia tuyển trạch nhật", "Đổng
công trạch nhật","Vạn bảo toàn thư" đối chiếu với lịch thế kỷ XX của nha
khí tượng và một số bài viết của các nhà khoa học để làm nhiệm vụ biên
khảo, dẫn giải tiếp bài viết của Phan Kế Bính.
Thực ra muốn trả lời cho thật đầy đủ và cụ thể phải đi sâu vào chiêm tinh học cổ đại mà cuốn sách này chưa thể đáp ứng.
Có những cách tính ngày tốt xấu cơ bản như sau:
Tính theo tháng âm lịch và ngày can chi:
- Các sao tốt:
Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu
yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngày có các sao này
chiếu thì làm việc gì cũng tốt.
Ngoài ra còn có
các sao: Sinh khí (thuận việc làm nhà, sửa nhà, động thổ), thiên thành
(cưới gả giao dịch tốt), thiên quan (xuất hành giao dịch tốt), lộc mã
(xuất hành di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải
trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, làm nhà, khai trương)...
Theo thứ tự lần
lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười
một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu vào các ngày như sau:
Thiên đức: Tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão. (1)
Nguyệt đức: Hợi, tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tị, thìn, mão, dần, sửu, tý.
Thiên giải: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Thiên hỷ: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.
Thiên quí: Dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, ngọ, tý, mùi, sửu.
Tam hợp: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.
Sinh khí: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi.
Thiên thành: Mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, mùi, sửu, mão, tị.
Thiên quan: Tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân.
Lộc mã: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Phúc sinh: Dậu, mão, tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, nùi, dần, thân.
Giải thần: Thân, thân, tuất, tuất, tý, tý, dần, dần, thìn, thìn, ngọ, ngọ.
Thiên ân: Tuất, sửu, dần, tị, dậu, mão, tý, ngọ, thân, thìn, thân, mùi.
--------------------------------------------
Có
nghĩa là: Sao thiên đức chiếu vào những ngày tị của tháng giêng, ngày
mùi của tháng hai, ngày dậu của tháng ba... Các sao khác cũng xem như
vậy.
Các sao xấu:
(mỗi tháng tính theo ngày âm có ba ngày nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6
ngày tam nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27).
Các sao xấu khác
tính theo tháng âm lịch và ngày can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại
hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập,
tiền tài), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng làm
nhà), băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), thổ cấm
(kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hành giá thú), cô thần, quả tú
(kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải
táng).
Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau:
Thiên cương: Tị, tý, mùi, dần, dậu, thìn, hợi, ngọ, sửu, thân, mão, tuất.
Thụ tử: Tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu.
Đại hao, tử khí, quan phù: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.
Tiểu hao: Tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn.
Sát chủ: Tý, tị, mùi, mão,thân, tuất, sửu, hợi, ngọ, dậu, dần, thìn.
Thiên hoả: Tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu.
Địa hoả: Tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tỵ, thìn, mão, dần, sửu, tý, hợi.
Hoả tai: Sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, tý, ngọ.
Nguyệt phá: Thân, tuất, tuất, hợi, sửu, sửu, dần, thìn, thìn, tị, mùi, mùi.
Băng tiêu ngoạ giải: Tị, tý, sửu, thân, mão, tuất, hợi, ngọ, mùi, dần, dậu, thìn.
Thổ cấm: Hợi, hợi, hợi, dần, dần, dần, tị, tị, tị, thân, thân, thân.
Thổ kỵ, vãng vong: Dần, tị, thân, hợi, mão, ngọ, dậu, tý, thìn, mùi, tuất, sửu.
Cô thần: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.
Quả tú: Thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão.
Trùng tang: Giáp, ất, mậu, bính, đinh, kỷ, canh, tân, kỷ, nhân, quý, mậu.
Trùng phục: Canh, tân, kỷ, nhâm, quí, mậu, giáp, ất, kỷ, bính, đinh, mậu.
Mỗi năm có 13 ngày dương công (xấu).
Tính theo ngày tiết: 4 ngày ly và 4 ngày tuyệt (xấu)
Mỗi năm có 4
ngày tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngày), 4
ngày tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một
ngày).
Tính theo ngày trực:
- Trong 12 ngày
trực có 6 ngày tốt (trực kiến (1), trực mãn (3), trực bình (4), trực
định (5), trực thành (9), trực khai (11), 3 ngày thường (trực chấp (6),
trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngày xấu (trực phá (7), trực nguy (8),
trực bế (12).
Tính theo nhị thập bát tú:
- Trong 28 ngày
có 14 ngày tốt, 14 ngày xấu nhưng nhị thập bát tú tương ứng với ngày
tuần lễ. Nói chung ngày thứ tư, thứ năm hàng tuần thường là ngày tốt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (XemTuong.net)