Tết
Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền,
năm mới hay chỉ đơn giản Tết), là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa
của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung
Quốc khác. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung
Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên
Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3
năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán
không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2
Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương
lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7
đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày
7 tháng Giêng).
Người
Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ
ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ
thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới
để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận,
cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là
dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời
đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một
phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở
3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau.
Phong
tục của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam vô cùng phong phú. Nào là chúc
Tết, lì xì, bày mâm ngũ quả, trồng cây nêu, gói bánh chưng, treo câu
đố,….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày Tết của người Việt.
Để
trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới
những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân
ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng)
trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.
Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Câu
đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một
ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự
việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là
ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại
của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.
Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù.
Câu
đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan
niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của
tinh hoa".
Đối
liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử
Thục thế gia, câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục
(934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959.
Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.
Ngày
Tết thiếu câu đối Tết là chưa đủ Tết. Trong nhà dù tranh hoàng thế nào
mà thiếu câu đối đỏ, Tết vẫn phảng phất thiếu một cái gì đó thiêng
liêng. Câu đối xưa được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm bởi những người có
học hành, chữ nghĩa giỏi mà dân gian gọi là Ông Đồ nhưng ngày nay thì
câu đối tết còn được viết bằng chữ quốc ngữ với những nội dung phong phú
và rất đẹp. Làm câu đối, thách họa đối, chơi câu đối,…vốm là hinh thức
sinh hoạt độc đáo và tao nhã của người Việt Nam. Nó thể hiện trí thông
minh sắc sảo, cách xử sự linh động và cao thượng, thế giới quan lành
mạnh cũng như những mong ước tốt đẹp trong cuộc sống thường ngày.
Tết đến, câu đối lại càng khó có thể thiếu trong niềm vui đón chào năm mới của mỗi gia đình.
Ngày
xưa, câu đối thường treo lên cột, khắc trên khung mái, hoặc viết lên
cổng, cửa, tường nhà, đền miếu, đình chùa... Đặc biệt, hai hàng cột gỗ
hai bên bàn thờ phải treo câu đối, còn phía trên bàn thờ là hoành phi,
cuốn thư. Tất cả làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông vức
như có khuôn phép, tạo cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng.
Câu
đối được làm từ nhiều chất liệu: có loại sơn son thiếp vàng để dùng lâu
dài, có loại làm bằng giấy bồi (gọi là liễn) hoặc cắt bằng giấy màu,
viết bằng mực nho... để dễ thay đổi theo từng năm, từng mùa cho mới, cho
hợp hoàn cảnh. Ngày thường, câu đối chỉ treo trên bàn thờ. Ngày tết thì
treo ở nhiều nơi, thậm chí những người ham mê và muốn giữ tục lệ cũ còn
chơi câu đối giấy, dán suốt từ ngoài cổng vào trong nhà! Câu đối có thể
mua sẵn hoặc nhờ, thuê người viết, nhưng hay nhất vẫn là do tự chủ nhân
làm ra.
Mỗi
câu đối gồm hai vế có số chữ bằng nhau, ý nghĩa và luật bằng trắc đối
chọi hoặc tương hợp nhau. Câu đối thể hiện những cảm nhận sâu sắc về
thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý
cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành... Mơ ước năm mới
vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát đạt và có nhiều bạn bè.
Dịp
tết, thường phải có câu đối đỏ. Màu đỏ vốn được coi là màu rực rỡ nhất
và theo quan niệm dân gian, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt (máu,
lửa). Nó vừa nổi trội vừa hài hòa với màu xanh của bánh chưng, màu vàng
của hoa mai... làm tươi sáng thêm không khí tết, tạo cảm giác ấm áp
trong mùa xuân mới.
Từ
xa xưa, Tết Nguyên Đán đã trở thành một bộ phận hợp thành nét văn hóa
đặc sắc của người dân Việt Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của người Việt. Nó được thể hiện trên nhiều phương diện
như: chúc tuổi, lì xì,….và đặc biệt qua phong tục dán câu đối Tết. Đó
là nét văn hóa cần được duy trì và phát triển.
Nguồn: Lính Chì
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net)