1. CÁT THẦN VÀ HUNG SÁT Cái gọi là cát thần thực ra không phải là nói trong Tứ trụ cát
thần càng nhiều càng tốt, hay cái gọi là hung sát cũng không phải là nói trong Tứ trụ không có
là tốt. Rất nhiều thần sát luôn luôn có cát, có hung. Từ kinh nghiệm đã tổng
kết được ta thấy người có nhiều thần sát
là mệnh cục tương đối phức tạp,
nhưng nếu tổ hợp Tứ trụ tốt lại phối với
thần sát thì người đó thường là những người siêu quần xuất chúng. Còn nói chung
đối với người dân bình thường thì thần sát không nhiều, thần sát càng ít thì
việc dự đoán càng đơn giản. Đương nhiên mọi việc không bao giờ là tuyệt đối,
cũng như người hung sát nhiều chưa chắc
đã gặp xấu, mấu chốt của vấn đề là phải xem các tổ hợp của Tứ trụ và tổ hợp của
tuế vận là hỉ hay là kị. Ngoài ra thần sát hoặc cát hoặc hung cũng không phải là tuyệt
đối, mà chỉ có thể nói rằng một thần nào đo lấy cát làm chính, một sát nào đó
lấy hung làm chính. Cát thần mà gặp phải hình xung khắc hại thì cũng như không
có, hung sát mà bị chế hợp không đủ sức
để làm hại thì cũng chẳng còn gì đáng gọi là kị. Nói chung các thiên can và các
địa chi đóng địa chi đóng dưới nó gặp phải cát thần hay hung sát nhờ đó mà trở
thành vượng hay suy. Phải xem các can chi đó bị hình hợp , xung khắc hay không
để xem nó tác dụng hay không có tác dụng. Trong mệnh cục gặp được cát thần thì
cả cuộc đời thuận lợi trọn vẹn, trong vận, trong năm gặp được cát thần thì đã
tốt càng thêm tốt. Trong Tứ trụ kị gặp hung thần vì như thế cả cuộc đời hay bị
tai hoạ, trong vận, trong năm gặp phải hung thần thì hung càng thêm hung. Chương này chỉ giới thiệu những cát thần và hung sát có tác dụng
nổi bật, còn những thần, sát khác ít có tác dụng hoặc ít gặp thì không bàn đến.
Cách tra thần, sát rất nhiều. Độc giả tự tìm cách nhớ thuận tiện cho mình là
được . 2. THIÊN ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC Lấy tháng sinh để tra
các thiên can hoặc địa chi trong Tứ trụ . 1. Thiên đức quý nhân. Tháng tí thấy tị,
tháng sửu thấy canh, tháng dần thấy đinh, tháng mão thấy thân, tháng thìn thấy
nhâm, tháng tị thấy tân, tháng ngọ thấy hợi, tháng mùi thấy giáp, tháng thân
thấy quý, tháng dậu thấy dần, tháng tuất thấy bính, tháng hợi thấy ất. Phàm người tháng sinh
tra thấy các can chi trong Tứ trụ như ở trên là có thiên đức quý nhân. Cách tra thiên đức quý nhân của người sinh vào tháng tí, ngọ,
mão, dậu là từ ngôi trường sinh của ngũ hành mà ra. Ngoài ra còn có cách gọi
tháng tí gặp quẻ tốn thìn là thủy đức,
vì nguồn xuất thuỷ quy mộ về cung tốn ; tháng mão gặp quẻ khôn mùi là mộc đức,
vì nguồn xuất mộc quy mộc về cung khôn ; tháng ngọ gặp quẻ càn tuất là hoả đực,
vì nguồn xuất hỏa quy mộ về cung càn ; tháng dậu gặp quẻ cấn sửu là kim đức, vì
nguồn xuất kim quy mộ về cung cấn, tức là lấy ngũ hành dương vượng, chính ngôi
phối với mộ, tức là quẻ của bản cung mà ra. Thiên đức chỉ dùng địa chi , không
dùng thiên can, cho nên lấy bốn quẻ trên. Trong kiểm thực tế lấy chính ngôi
trường sinh để xác định tháng tí, ngọ, mão, dậu còn chia ra thành tị, hợi,
thân, dần là khá chuẩn. Độc giả có thể căn cứ vào thiên, nguyệt đức của những người sinh vào bốn tháng trên, xem xét quá trình
gặp hung hóa cát của họ để kiểm nghiệm. 2. Nguyệt đức quý nhân Lấy chi tháng làm chủ để tra các thiên can trong Tứ trụ . Sinh các tháng dần, ngọ, tuất thấy bính ; Sinh các tháng thân , tí, thìn
thấy nhâm ; Sinh các tháng hợi, mão, mùi
thấy giáp ; Sinh các tháng tị, dậu, sửu
thấy canh ; Phương pháp nhớ cách tra nguyệt đức là căn cứ vào khí của tam
hợp , ví dụ dần, ngọ, tuất thuộc hỏa thì lấy bính hỏa làm đức ; thân, tí, thìn
thuộc thuỷ thì lấy nhâm thuỷ làm đức ; tí, dậu, sửu thuộc kim thì lấy canh kim làm đức ; hợi, mão, mùi thuộc mộc thì lấy
giáp mộc làm đức để quy nạp. Phàm các tháng trong cục gặp can dương vượng khí
đều là gặp nguyệt đức . Hai quý nhân thiên đức và
nguyệt đức đều chủ về người có cuộc đời không nguy hiểm. Thiên đức quý nhân là
cát tinh phúc tường, tính tình nhân từ đôn hậu, cuộc đời phúc nhiều, ít nguy
hiểm, gặp hung hóa thành cát, hóa hiểm thành an, như là có thần bảo hộ. Nguyệt
đức quý nhân là cát tinh phúc thọ. Trong
Tứ trụ có cả thiên, nguyệt đức là người
có năng lực gặp hung hóa các rất mạnh, gặp được cát thần thì càng thêm
tốt, gặp phải hung thần cũng bớt xấu rất nhiều, nhưng gặp phải xung khắc thì vô
dụng. 3. THIÊN ẤT QUÝ NHÂN Cách tra là lấy can ngày hoặc can năm làm chủ
để tra các địa chi trong Tứ trụ . Can ngày, năm là giáp, mậu thấy sửu, mùi ; Can ngày, năm là ất, kỷ thấy tí, thân ; Can ngày, năm là canh , tân thấy dần , ngọ ; Can ngày, năm là nhâm , quý thấy mão , tị
; Người mà trong Tứ trụ
tra được như trên là có thiên ất quý nhân. Cát tinh này chủ về thông minh, trí
tuệ, là thần gặp hung hóa cát. Nếu hợp hóa thành dụng thần, hoặc hỉ thần là rất
tốt, rất kị gặp hình, xung, khắc, hại, suy, bệnh, tử, tuyệt. Người mà thân
vượng thì phúc đức càng tăng thêm, cuộc đời ít bệnh tật, người mà thân nhược
thì bệnh nhiều hoặc giảm phúc quý. Thiên ất quý nhân là
ngôi sao ở phía trái sao tử vi trong thiên thể, là chủ tể của muôn thần. Trụ
năm hoặc trụ tháng gặp được hai quý nhân là có ý phân âm dương để trị, hàm ý
trong ngoài có khác nhau. Thìn, tuất là vị trí của sao khôi canh, cho nên quý
nhân không đến. 4. LỘC THIÊN CAN Lấy can ngày làm chuẩn để tra các địa chi
trong Tứ trụ . Phàm can ngày mà gặp
lộc trên chi năm gọi là tuế lộc, trên chi tháng là kiến lộc, trên chi ngày là
chuyên lộc, tọa lộc, trên chi giờ là quy lộc. Thần lộc vượng mà gặp địa chi
kiếp tài, không gặp phải hình xung, khắc, phá là chủ về công danh thuận lợi.
Thân vượng mà lộc nhiều nên bị khắc cho xì hơi, thân nhược mà lộc vượng lại
không bị phá đều là quý mệnh. Lộc kị bị xung phá , ví dụ giáp lộc là dần, gặp
thân là bị phá , mão lộc kị gặp dậu, tị lộc kị gặp hợi, ngọ lộc kị gặp tí. Vì
quan viên gặp phải thì mất quan mất chức, nghèo khổ hư danh, người thường gặp
phải thì phải cơm áo không no, bôn ba vất vả. Ngày giáp lộc ở dần ;
ngày ất lộc ở mão. Ngày bính, mậu lộc ở tị ; ngày đinh, kỷ lộc ở mão. Ngày canh lộc ở
thân ; ngày tân lộc ở dậu . Ngày nhâm lộc ở hợi ; ngày quý lộc ở tý. Lộc nhờ có thế lực mà
được hưởng thì được gọi là lộc, là cát thần. Lộc là khí của bốn mùa, tuỳ theo
ngũ hành vượng, trong đó bính lộc ở tị, đinh lộc ở ngọ, mậu lộc ở tị, kỉ gửi ở ngọ, hỏa sinh thổ
là tí nhờ mẹ mà được hưởng lộc, thìn,
tuất là khôi canh là chỗ ác địa, kém cỏi cho nên lộc thần không gửi. Sửu mùi là
cửa xuất nhập của thiên ất quý nhân cho nên lộc lánh xa, do đó không có lộc.
Cách nhớ thập can lộc chỉ cần nhớ can ngày, bản khí của nó là địa chi là được .
Ví dụ dần mộc tàng can của bản khí là giáp mộc. 5. VĂN XƯƠNG Cách tra là lấy can ngày, can năm làm chuẩn để
tra các địa chi trong Tứ trụ . Can ngày, năm giáp thấy tị ; Can ngày, năm ất thấy ngọ ; Can ngày, năm bính, mậu thấy thân
; Can ngày, năm đinh, tị thấy dậu ; Can ngày, năm canh thấy hợi ; Can ngày, năm tân thấy tí ; Can ngày, năm nhâm thấy dần ; Can ngày, năm hợi thấy mão ; Những người trong Tứ trụ tra thấy như trên gọi
là có sao văn xương. Sao văn xương nhập mệnh thì thông minh hơn
người . Trong Tứ trụ kiêm có học đường thì chủ về học tập ưu tú, khí chất nho
nhã, và còn có tác dụng gặp xung hoá cát. Sao văn xương là thực thần lâm quan, là chỗ
trường sinh. Ví dụ giáp lấy bính làm thực thần, bính lâm quan ở tị cho nên giáp
lấy tị làm văn xương. Căn cứ nguồn gốc của sao văn xương ta có thể tìm ra cách
nhớ.
Thần sát phần nhiều
lấy địa chi làm căn cứ, nên nó có thể làm tăng thêm lực hình, xung, hợp , hại.
Thầy Thiệu Vĩ Hoa trong cuốn sách “Chu dịch dự đoán học” và “Dự đoán theo Tứ
trụ” đã thu hút những tinh hoa của các hiền nhân để đi đến những kiến giải độc
đáo trong thực tiễn dự đoán. Vì vậy ở đây không bàn chi tiết nữa, mà giống như
cuốn sách “Nhập môn chu dịch dự đoán học”, ở đây cũng chỉ đưa ra những phương
pháp ghi nhớ các quy luật một cách nhanh nhất để giới thiệu cho mọi người.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net)