Nguồn gốc tục cúng cô hồn
Xưa, người Việt cổ tin rằng, tùy theo
việc khi còn sống làm mà người mất sẽ được đầu thai kiếp khác hay bị đày
xuống địa ngục, thậm chí lang thang quấy rối người thường. Và cúng cô
hồn từ đó mà xuất hiện.
Theo quan niệm của nhiều gia đình Việt,
việc cúng cô hồn không chỉ để khỏi bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc,
giúp những cô hồn ít ra cũng có một ngày được no nê, đỡ tủi phận. Đó là ý
nghĩa mang tính nhân văn rất cao trong văn hóa Việt, cũng như quan niệm
về ngày xá tội: con người dù đã gây ra những tội ác gì thì trong quá
trình chịu trừng phạt, quả báo, cũng có được một ngày xá tội, để đỡ khổ
cực, đau đớn…
|
Theo
quan niệm của nhiều gia đình Việt, việc cúng cô hồn không chỉ để khỏi
bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc, giúp những cô hồn ít ra cũng có một
ngày được no nê, đỡ tủi phận. |
Dưới góc độ Đạo giáo, tục cúng cô hồn
bắt nguồn từ tích cổ Trung Hoa. Truyền thuyết dân gian cho rằng từ mùng
2/7, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì
“thả cửa” để cho ma quỷ túa ra tứ phương, đến sau 12 giờ đêm ngày 14/7
thì kết thúc và các ma quỷ phải quay lại địa ngục.
Do đó, vào tháng 7 âm lịch, người ta
quan niệm trên dương thế có rất nhiều quỷ đói nên phải cúng cháo, gạo,
muối hối lộ cho chúng để chúng không quấy nhiễu cuộc sống bình thường. Ở
Trung Quốc, việc cúng cô hồn được thực hiện vào ngày 14 tháng 7 Âm
lịch, còn ở Việt Nam, thời gian này kéo dài nguyên một tháng.
Một chuyện khác kể rằng, một đại đệ tử
của Phật là đức A Nan Đà một buổi tối đang ngồi trong tịnh thấy thì thấy
một con ngạ quỷ (quỷ đói) người gầy quắt, cổ dài, miệng nhả ra lửa bước
vào, nói rằng 3 ngày nữa A Nan Đà sẽ chết và cũng trở thành quỷ miệng
lửa (diệm khẩu) như nó. Quỷ nói: “Nếu muốn tránh thì ông phải bố thí cho
lũ ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc đồ ăn, và cúng dường Tam bảo giúp
chúng tôi, để chúng tôi được tái sinh vào cõi trên, thì ông cũng được
tăng thọ”.
Tôn giả A Nan Đà đem chuyện này nói với
đức Phật. Phật bèn làm một bài chú đem tụng trong lễ cúng tam bảo để cầu
siêu thoát cho quỷ đói miệng lửa. Về sau, dân gian hiểu rộng ra thành
lệ cúng và cầu phúc cho vong nhân nói chung. Lễ cúng dần dần thành xá
tội vong nhân – thể hiện lòng kính trọng, vị tha của người còn sống đối
với những người đã khuất, dẫu cho những hành động quá khứ lỗi lầm xưa
kia…
|
Cũng
trong tháng 7, người ta thường truyền tai nhau về 18 điều cấm kỵ như:
không để chuông gió trước đầu giường, đi đêm không được gọi tên thật,
không được chụp ảnh buổi tối... |
Cũng trong tháng 7, người ta thường
truyền tai nhau về 18 điều cấm kỵ như: không để chuông gió trước đầu
giường, đi đêm không được gọi tên thật, không được chụp ảnh buổi tối...
Cũng không ít người quan niệm rằng tháng này đen đủi, không nên dựng
nhà, sửa cửa, đám cưới… Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng những quan
niệm này chưa được bất kỳ khoa học nào chứng minh là đúng. "Mọi người có
thể có được đức tin song không nên sa đà vào mê tín. Nhiều khi chính sự
sa đà sẽ khiến họ vuột mất cơ hội tốt", GS. TS Phạm Đức Dương, chuyên
gia về Ngôn ngữ dân tộc và Đông Nam Á học chia sẻ trên Infonet.
Ngạ quỷ - nỗi kinh sợ trong tháng cô hồn
Trong số những cô hồn, ma quỷ hay phá
quấy người dân, dân gian xưa thường xuyên nhắc tới ngạ quỷ (quỷ đói).
Trong các thuyết Phật giáo, người ta cho rằng, ngạ quỷ là một dạng tái
sinh khi con người chết đi, nếu làm nhiều việc tốt, chúng sẽ được đầu
thai kiếp khác làm người. Ngược lại, nếu làm điều xấu, tùy theo các mức
độ mà chúng sẽ bị đầy xuống địa ngục, nhẹ hơn thì đầu thai làm súc sinh
và nhẹ nhất làm ngạ quỷ.
Tín ngưỡng dân gian cũng lưu truyền một
sự tích khác về quỷ đói. Tương truyền có một gia đình nọ giàu có nhờ bán
nước mía. Một hôm, có một nhà sư tới xin nước mía về để chữa bệnh.
Người chồng đi vắng, dặn vợ ở nhà tiếp đãi nhà sư cẩn thận.
Nhưng bà vợ tham lam, keo kiệt đã lén đi
tiểu vào bát của nhà sư, sau đó trộn chung với nước mía. Nhà sư tinh
thông biết chuyện, đã đổ bát nước đi và bỏ về. Sau này, người vợ chết
đi, do tội lỗi của mình nên bị đầu thai thành thứ quỷ luôn luôn đói
khát, sống ở nơi bẩn thỉu, nhớp nhúa, gọi là quỷ đói.
Tháng 7 âm lịch có hai lễ lớn: Vu Lan và cúng Cô hồn
Như vậy, trong tháng 7 âm lịch có hai lễ
lớn: Vu Lan và cúng Cô hồn. Hai lễ này về cơ bản hoàn toàn khác nhau.
Lễ Vu Lan gắn với tích về Mục Kiền Liên, người hầu của Đức Phật, là một
vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông.
|
Như vậy, trong tháng 7 âm lịch có hai lễ lớn: Vu Lan và cúng Cô hồn. |
Vì tưởng nhớ mẹ nên một ngày nọ Mục Kiền
Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục, thấy mẹ là bà Thanh Đề bị
Diêm Vương đày làm quỷ đói do kiếp trước gây nhiều nghiệp ác. Thương mẹ
nên ông dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng cho người. Bà
Thanh Đề do lâu ngày nhịn đói nên khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của
mình vì sợ các cô hồn khác đến tranh. Vì còn tính "tham sân si" nên khi
bà đưa bát lên miệng, thức ăn đã hóa thành lửa đỏ không thể ăn được.
Đau xót khi chứng kiến cảnh này, Kiền Liên cầu xin Đức Phật giúp mình
cứu mẹ.
Đức Phật dạy ông rằng một mình con không
thể cứu được mẹ do ác nghiệp của bà quá nặng, chỉ còn cách nhờ hợp lực
của chư tăng khắp mười phương mới mong thành công. Vào ngày rằm tháng
bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạ (sau 3 tháng an cư kiết hạ) thì sửa một
cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng và thành khẩn cầu xin mới
có thể cứu rỗi vong nhân khỏi địa ngục tăm tối.
Mục Kiền Liên thành tâm làm theo lời
Phật dạy, không những cứu được mẹ mà còn giải thoát được tất cả vong hồn
bị giam cầm ở âm cung. Từ đó ngoài ý nghĩa "mùa hiếu hạnh", tháng bảy
âm lịch còn gọi là tháng "xá tội vong nhân", tức là thời gian các vong
hồn được thả tự do. Trong những ngày này, người dân thường lập đàn cầu
siêu hoặc cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn (tức là vong hồn
không có người thân) để mong họ phù hộ cho mình.
Từ đó về sau theo lời Phật dạy, các phật
tử muốn báo hiếu cha mẹ thì cử hành lễ Vu Lan để cầu siêu cho các đấng
sinh thành và cầu phá địa ngục cho những vong hồn. Tuy nguồn gốc khác
nhau nhưng cả hai lễ cúng lớn trong tháng 7 đều chứa đựng ý nghĩa nhân
văn cao cả, đó là đề cao việc báo hiếu và làm phúc bố thí.