-Tại sao khi chưa nhập quan, người ta
luôn luôn thắp hương nến (nếu không có nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho
đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn? -Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con? -Tại sao có tục dựng bó đuốc
to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng (nếu để qua đêm), con cháu
và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ "Chúc thực" ban đêm, nghĩa là
"lễ trồng bó đuốc"?) -Tại sao có tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc, tránh nhỏ nước mắt vào thi hài? - Tại sao sau lễ nhập quan
phải đốt lỗ hung (lỗ đào ở chính giữa giường người mới chết nằm khi
chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than , củi hoặc giẻ
rách...). -Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo? (Tục này chỉ có ở thành phố đối với người già). -Tại sao phải nhốt mèo khi nhà có người mới chết ? -Tại sao khi người chết trong
nhà, người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một vài viên ngói, hoặc lá
tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)? Những câu hỏi trên cùng có
chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân gian,dùng phép thuật điều
hoà khí âm dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa
hiện tượng "Quỷ nhập tràng". Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần bắt chước nhau trở thành phong tục. Dùng khói lửa, ánh sáng mặt
trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà, mở rộng cửa,
đào lỗ hung, đốt pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả
trứng, cây chuối... để thu hút hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, có
nhiều lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để
đánh gió). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ
nước mắt vào thi hài hoặc cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ
mái nhà... là những thuật triệt tiêu luồng điện âm dương hút nhau. Ngoài ra, những người đến dự
lễ tang, nhất dự khâm liệm còn có những thuật khác để phòng chống hơi
lạnh như ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ
bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net)