Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu
nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng
đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị
phương Bắc đô hộ. Nhà văn Toan Ánh trong quyển "Nếp cũ tín ngưỡng Việt
Nam Quyển Hạ" cho rằng: Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời
nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh. Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng tám, gió
mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài thành, nhà vua gặp
một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như tuyết. Vị
tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu
chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi
nơi cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ
mộng, nhà vua đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ
uống rượu trông trăng nên còn gọi là Tết Trông Trăng. Trong đêm 15 tháng 8 âm lịch hằng năm, khi
trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa
quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong
dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức
ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi
nhà. Còn thưởng trăng vốn bắt nguồn từ việc
cúng trăng. Đến đời Đường, thú ngắm trăng dịp Trung thu trở nên thịnh
hành, thể hiện nhiều trong thơ ca thời này. Nhưng đến đời Tống, lễ hội
ngắm trăng mới chính thức trở thành Tết Trung thu. Tục lệ ăn bánh hình
mặt trăng (bánh nướng, bánh dẻo) trong dịp Tết Trung thu cũng bắt đầu từ
thời này. Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ
đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình
thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu,
với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể
nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy. Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn
ông sao, đèn con giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát
vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm
tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo
nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra.
Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em. Trong ngày Tết Trung Thu người ta bày cỗ
với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân
rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh của các bà
các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn.
Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông
tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả.
Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ
lúc đã khuya. Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát
trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào
một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra
những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận
(hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng
khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và
nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống
quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai
gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm.
Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến
thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc
Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục
này. Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn
gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán.
Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết
Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có
những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám
múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những
điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng
vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn
có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu
lân... Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những
ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên
cao cho con lân leo lên lấy. Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn,
ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải.
Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa
vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta
ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu
vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì
năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước
sẽ thịnh trị v.v. Người Trung Hoa không có phong tục này. Ngọc Linh tổng hợpCúng trăng (Tế nguyệt)
Ngắm trăng (Thưởng nguyệt)
Thi cỗ và thi đèn
Hát Trống quân
Múa Sư tử (múa lân)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (XemTuong.net)