Ngưỡng cửa của nguồn là im lặng. Nhưng bạn phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực sinh ra. Ở đó bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ tồn tại, ý thức và tiềm năng cho các rung động nảy sinh. Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói
1. Nhà khoa học kể lại câu chuyện tâm linh
(Đọc trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010).
(Ông nói: Trường ý thức là cơ sở của
mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron,
mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh
lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện).
Câu chuyện, đã trở thành nổi tiếng
trong tài liệu cận tử, thuộc về một nghệ sĩ tên là Mellen-Thomas
Benedict chết vì u não năm 1982. Việc ông chết một tiếng rưỡi rồi hồi
tỉnh thật không thể tin được đối với các tiêu chuẩn phương Tây. Trong
Phật giáo Tây Tạng ông có thể được coi là một delog, và các kinh nghiệm
của Benedict chi tiết như mọi câu chuyện của các delog khác. Tôi sẽ kể
chi tiết câu chuyện này vì cuộc du hành của Benedict thực sự đã cung cấp
cả một bách khoa toàn thư về cõi sau sự sống.
Ông phát hiện ra mình ở bên ngoài thể xác, nhận biết rằng thi thể vẫn
nằm trên giường. Lĩnh hội mở rộng-ông có thể nhìn bên trên, xung quanh
và bên dưới ngôi nhà của mình-và ông cảm thấy mình bị bao bọc trong bóng
tối, nhưng chẳng bao lâu một ánh sáng chói lòa trở nên rõ rệt. Ông di
chuyển về hướng ánh sáng, biết rằng nếu rơi vào đó ông sẽ chết.
Tại điểm này, Benedict đã ra một quyết định kinh ngạc. Ông đề nghị kinh
nghiệm dừng lại và nó dừng lại. Việc ông tìm cách khống chế những gì xảy
ra sau cái chết có thể không làm một rishi ngạc nhiên, nhưng nó gần như
duy nhất trong tài liệu cận tử.
Benedict ra lệnh dừng lại như vậy để ông có thể nói chuyện với ánh sáng.
Trong khi ông hành động như vậy, ánh sáng thay đổi hình dạng liên tục,
khi thì tạo nên hình Chúa Trời hay đức Phật, khi thì chuyển thành các
hình thù phức tạp như đàn tràng mandala hoặc các hình ảnh nguyên bản và
các kí hiệu như ông muốn.
Ánh sáng nói với ông (hay chính xác hơn là truyền thông tin vào tâm trí
ông) rằng người chết được cho “một vòng liên hệ ngược” của các hình ảnh
tương xứng với hệ thống tín ngưỡng riêng họ: tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn
thấy các hình ảnh Thiên Chúa giáo, Phật tử nhìn thấy các hình ảnh Phật giáo…
Là một cái vòng, người chết có thể đi vào bên trong kinh nghiệm và tạo
hình nó, như Benedict đã làm. (Ánh sáng giải thích rằng ông là một ca
hiếm; đa số người ta đi tiếp mà không hỏi gì cả).
Việc Benedict nhìn thấy nhiều hình ảnh hoán đổi nhau có thể liên quan
tới niềm say mê các tôn giáo và truyền thống tâm linh của thế giới sau
khi ông bị chẩn đoán mắc ung thư. Sau đó Benedict nhận ra cái ông nhìn
thấy thực ra là ma trận Bản Ngã Tối Cao, mà ông mô tả là “mandala của
linh hồn con người”; chính là hình mẫu vũ trụ của ý thức.
Ông nhận ra mỗi người có Bản Ngã Tối Cao là siêu linh mà cũng là kinh
mạch trở về nguồn. Những thuật ngữ này, gần như không thay đổi, nghe
giống Vedanta thuần túy. Điều này gây nên sự ngờ vực, bởi vì Benedict có
thể bị các kinh sách Ấn Độ ông đọc cách đó không lâu ảnh hưởng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, về phía ông, kinh nghiệm đã trải qua là hoàn toàn bột phát
và hiện thực.
Chăm chú nhìn ma trận của các linh hồn, Benedict nhận ra là tất
cả chúng liên kết với nhau; nhân loại hình thành một tồn tại; mỗi chúng
ta là một khía cạnh của tổng thể này. Ông bị lôi kéo vào cái ma trận mà
ông mô tả là đẹp không tả xiết. Nó toát ra một tình thương trị liệu và
bổ dưỡng xâm chiếm ông. Ánh sáng truyền đạt tới ông rằng ma trận linh
hồn hình thành một mức năng lượng vi diệu bao bọc quanh trái đất và ràng
buộc mọi người lại với nhau.
Benedict đã mất hàng chục năm dồn hết tâm trí vào lĩnh vực giải trừ vũ
khí hạt nhân và sinh thái học, nhưng vấn đề khó khăn khiến ông hết sức
bi quan. Ông nói giờ đây ông được đối diện với vẻ đẹp thuần khiết của
mỗi linh hồn con người và thật bàng hoàng.
Ông đặc biệt kinh ngạc khi không có linh hồn nào chứa đựng cái ác, và
ánh sáng cho ông biết linh hồn không thể nào độc ác di truyền. Sự kiếm
tìm tình yêu nằm trong mọi hành vi của con người, và khi người ta bị lôi
kéo vào những hành vi tồi tệ, nguyên nhân gốc rễ là thiếu tình thương.
Khi ông hỏi như thế có phải là nhân loại có thể được cứu rỗi, một hồi
kèn vang lên trong ánh sáng xoáy ốc, và Benedict được nhắn nhủ rằng chớ
bao giờ quên câu trả lời: loài người đã được cứu rỗi, dù cho tình hình
hiện tại có vẻ kinh khủng đến thế nào đi chăng nữa.
Benedict trải nghiệm sự khoan khoái tột độ khi ông bị hút sâu hơn vào
ánh sáng, đạt tới vùng khác vi diệu hơn và bao la hơn nhiều. Ông nhìn
thấy một “dòng ánh sáng khổng lồ, thoáng đạt và chan chứa sâu trong trái
tim sự sống”. Khi ông hỏi cái gì đấy, ánh sáng trả lời rằng đó là dòng
sông sự sống và ông cần uống nước từ đó để trái tim mình thỏa mãn.
Tràn ngập nỗi tò mò vô hạn, bây giờ ông xin ánh sáng hé mở cho ông cả vũ
trụ “phía sau mọi ảo ảnh nhân loại”. Ông được đề nghị cưỡi lên dòng sự
sống, và khi thực hiện, ông vừa vượt qua một đường ngầm và nghe thấy
“những tiếng động nhẹ nhàng”. Tốc độ của ông vượt quá tốc độ ánh sáng
khi ông rời khỏi hệ mặt trời, xuyên qua tâm giải Ngân hà, và nhận biết
vô số thế giới và nhiều hình thái sự sống, tất cả trong một sự hối hả
chóng mặt. Ở đây Benedict có một phát hiện quan trọng, rằng điều tưởng
như là du hành xuyên qua vũ trụ thực ra chỉ là mở rộng ý thức của chính
mình. Sự hiện diện của các ngân hà và tinh vân lướt qua chính là ý thức
của ông trôi qua hết giới hạn không-thời gian này đến giới hạn khác.
Benedict mô tả toàn bộ các dải ngân hà mất hút vào một điểm, về các hình
thái sự sống bộc lộ sự tồn tại của chúng, về một ánh sáng thứ hai chứa
đựng mọi rung động trong vũ trụ. Theo các rishi Veda, đó là các rung
động nguyên thủy mà từ đó vạn vật xuất hiện, có nghĩa là Benedict đã là
nhân chứng của chính hoạt động ý thức. Benedict đã tìm được ngôn ngữ
riêng của mình cho giai đoạn này, khi nói rằng ông đối mặt với hình ảnh
ba chiều của vũ trụ.
Khi đi vào vùng ánh sáng thứ hai, ông thể nghiệm sự chuyển biến sang im
lặng và tuyệt đối bất động. Có một điều xảy ra là ông có thể nhìn thấy
vô tận. Ông ở trong trống rỗng, hoặc là tiền sáng thế như cách ông gọi,
và ý thức của ông vô hạn. Ông đã tiếp xúc với cái tuyệt đối không phải
là một kinh nghiệm tôn giáo mà là một trong những nhận thức không ràng
buộc. Ông nhận thấy vạn vật tự phát sinh không có bắt đầu hay kết thúc.
Thay vì một Big Bang, sự kiện duy nhất đã tạo ra vũ trụ, Benedict nhận
thấy hàng triệu Big Bang liên tục sản sinh ra những vũ trụ mới. Bởi vì
ông ở ngoài thời gian, điều này xảy ra đồng thời ở khắp mọi hướng.
Sau khi đạt đến sự diện hiện vũ trụ này, cuộc du hành của Benedict tự
quay về, từng bước một, và ông thức dậy trên giường mình tại nhà với
nhận thức không lay chuyển, giờ đây rất giống trong tài liệu kinh nghiệm
cận tử, rằng cái chết là ảo giác.
Ông Benedict đã đồ rằng sẽ trở về cõi trần là một đứa bé, với một kiếp
sống mới. Thế nhưng khi mở mắt ra, ông vẫn có cơ thể cũ, cái cơ thể đã
chết hơn một tiếng đồng hồ theo lời kể của nhân viên nhà tế bần có mặt
lúc đó (ở đó không có máy đo đạc hay bác sĩ). Nhân viên nhà tế bần,
người khóc bên xác Benedict, cam đoan với ông rằng ông đã có mọi dấu
hiệu của cái chết, kể cả cơ thể lạnh cứng dần. Một ống nghe khoách đại
không phát hiện ra nhịp tim. (Dưới góc độ y học, xác nhận này tự thân
quá kì quặc khiến một người hoài nghi phải trừ hao mọi phần khác trong
câu chuyện của Benedict).
Mặc dầu lúc đầu bị mất phương hướng ghê gớm, ông Benedict cảm thấy dễ
chịu hơn là trong cuộc sống trước kia. Phải mất ba tháng ông mới dám
liều đi chụp não lại, dễ hiểu là ông lo ngại về khối u-nhưng lại nhận
được những tin tuyệt vời. Mọi dấu vết của khối u ác tính đã biến mất, vị
bác sĩ chuyên khoa ung thư giải thích đó là sự thuyên giảm tự phát, một
trường hợp u ác tính tự tiêu biến rất hãn hữu. Đây là sự lãng tránh vấn
đề khỏi bệnh thông qua cái chết chưa từng bắt gặp trong sách y học, và
hiện tượng khỏi bệnh ung thư ác tính cấp, như tôi được biết, là hiếm xảy
ra nhất.
2. Nói về hoạt động trí não
* Trí óc vận hành trong cái manh mún,
từng phần, chia chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó không bao giờ là cái toàn
thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu biết nhưng vô hiệu. Vì chính bản
chất của nó, nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức cũng thế;
tư tưởng, phản ứng của kí ức chỉ có thể vận hành trong cái đã biết, hoặc
lí giải từ kiến thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn hóa. Nó
không thể vượt lên trên chính nó. Nó chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành
nhà khoa học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật gia, kĩ thuật gia, nông gia… Nó
hoạt động bằng cách phóng chiếu lên giai cấp xã hội, đặc quyền, quyền
hành, uy thế của nó. Sự vận hành não bộ và giai cấp xã hội liên kết với
nhau chặt chẽ, vì trí óc là một cơ quan tự bảo vệ. Chính từ nhu cầu này
mà những yếu tố đối nghịch và chống trái của xã hội phát sinh. Nhà
chuyên môn thì không có khả năng nhìn được toàn diện.
(…) Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại, vì củng cố tính vị
ngã; vì mang tính chia chẻ vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu
chỉ có giá trị trong sự nhìn thấu toàn diện đời sống, sự nhìn thấu này
nằm trong lĩnh vực của tâm chứ không phải của trí óc. Năng khiếu với sự
vận hành của nó nằm trong giới hạn của trí óc, do đó năng khiếu trở nên
nhẫn tâm, lãnh đạm đối với tiến trình toàn thể của đời sống. Năng khiếu
gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự thành tựu của nó trở thành ưu
tiên hàng đầu, nó đưa đến thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó chỉ có giá
trị nếu nhận thức được toàn thể sự sống. (…).
(…) Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với sự chia chẻ manh
mún, với những hoạt động cô lập lại nó trong địa hạt giới hạn của thời
gian. Trí óc không có khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống; dù có được
giáo hóa đến đâu, trí óc cũng chỉ là một phần chứ không phải là toàn
thể. Chỉ có tâm mới thấy được cái toàn thể, và phạm vi của tâm bao trùm
luôn trí óc; trí óc dù có làm gì đi nữa cũng không thể chứa đựng được
tâm.
Để nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái buông xả. Buông xả
hoặc phủ nhận không phải là đối nghịch của khẳng định; những cái đối
nghịch đều liên kết với nhau. Sự phủ nhận không có cái đối nghịch. Để có
được cái nhìn toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt
đối; nó không được can thiệp vào bằng cách lượng giá, biện bạch, kết án
và tự vệ. Trí óc phải im lặng mà không bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho
trí óc chết cứng, chỉ có khả năng mô phỏng và tùy hợp. Chính trong trạng
thái phủ nhận mà trí óc tĩnh lặng không lựa chọn. Chỉ chính lúc đó cái
nhìn toàn thể mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh thức, và trạng
thái này không gồm có người quan sát cũng như vật bị quan sát, mà chỉ có
ánh sáng, chỉ có sáng suốt. Sự đối kháng và xung đột giữa người tư duy
và tư tưởng kết thúc. (Jiddu Krishnamurti-danh nhân giác ngộ. Bút hoa
(The Krishnamurti’s notebook); Ẩn Hạc dịch).
* Cần phải thừa nhận rằng trong các
khoa học tự nhiên cũng có một phần lớn mang tính chủ quan. Với vai trò
là sinh vật biết tư duy, nhà khoa học không thể quan sát Tự nhiên một
cách hoàn toàn khách quan. Einstein từng nói: “Các khái niệm vật lí là
những sáng tạo tự do của trí tuệ con người, ngay cả khi chúng có vẻ như
được quyết định chỉ bởi thế giới bên ngoài.
Những cố gắng của chúng ta nhằm nắm bắt hiện thực cũng tựa như những nỗ
lực của người tìm cách hiểu cơ chế hoạt động của một chiếc đồng hồ kín
mít. Anh ta chỉ nhìn thấy mặt đồng hồ và các kim chuyển động, thậm chí
còn nghe cả tiếng tích tắc, nhưng anh ta không có cách nào để tháo vỏ
đồng hồ ra.
Nếu đủ thông minh, anh ta sẽ tạo ra hình ảnh của một cơ cấu đã gây ra
tất cả những gì anh ta quan sát được, nhưng anh ta không bao giờ có thể
chắc chắn rằng hình ảnh mà anh ta tạo ra là duy nhất có thể giải thích
được những quan sát của mình. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh
được mô hình của mình với cấu trúc thực, và thậm chí cũng không thể hình
dung ra được liệu sự so sánh này có một ý nghĩa nào không”. (Trịnh Xuân
Thuận-nhà vật lí thiên văn.Cái vô hạn trong lòng bàn tay; (đồng tác
giả: Mathieu Ricard); Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).
* Thực ra, ngành sinh học thần kinh đã
chứng tỏ được rằng “hiện thực” chỉ xuất hiện đồng nhất đối với các sinh
vật cùng loài có cùng một hệ thần kinh. Các loài khác nhau thì cảm nhận
thế giới theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu đối với
loài cá, chim và côn trùng đã chứng tỏ rằng màu sắc và hình dạng của các
vật được các loài vật này cảm nhận theo những cách hoàn toàn khác với
con người. Hiện thực chắc chắn bị thay đổi tùy theo hệ thống thần kinh
cảm nhận nó. (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
* Nếu người ta phân tích một trong
những cách tri giác nào đó, như cách tri giác của con người chẳng hạn,
thì người ta sẽ nghiệm thấy đơn giản rằng, trong một số điều kiện, người
ta quan sát và đo lường một số hiện tượng theo cách có thể tái tạo
được. Nhưng làm như vậy, hiện thực của “vật” không vượt qua thân phận
ban đầu của nó, tức là cái “nhãn mác tinh thần”. Quá trình thực nghiệm
này chưa bao giờ chứng tỏ rằng cái mà người ta quan sát là tồn tại tự
thân và có các đặc tính nội tại.
Chúng ta có thể nhìn thấy một nghìn lần hai Mặt trăng bằng cách áp một
nghìn lần hai ngón tay vào nhãn cầu của chúng ta, và chắc chắn là việc
nhìn thấy hai Mặt trăng này không hề có nghĩa là có hai Mặt trăng thật!
(Mathieu Ricard-nhà sinh học; sách đã dẫn).
* Định lí về tính không đầy đủ của
Godel thực tế ngụ ý rằng có tồn tại những giới hạn đối với sự suy luận
logic, chí ít là trong toán học. Định lí này thường được coi là một phát
minh logic quan trọng nhất của thế kỉ XX. (…) Năm 1931, ông đưa ra một
định lí có lẽ là tuyệt vời và bí hiểm nhất trong số các định lí toán
học.
Ông đã chứng tỏ được rằng một hệ thống số học nhất quán và phi mâu thuẫn
chắc chắn sẽ chứa các mệnh đề “không giải quyết được”, tức là các phát
biểu toán học mà người ta không thể bằng logic nói được chúng là đúng
hay sai.
Mặt khác, không thể chứng minh được rằng một hệ thống là nhất quán và
phi mâu thuẫn chỉ dựa trên cơ sở của các tiền đề (các mệnh đề đầu tiên
được chấp nhận không cần chứng minh) có trong hệ thống này.
Ngược lại, cần phải “đi ra ngoài hệ thống” và đưa ra các tiền đề phụ bên
ngoài hệ thống. Theo nghĩa này, hệ thống tự bản thân nó chỉ có thể là
không đầy đủ. Chính vì thế, định lí của Godel cũng thường được gọi là
“định lí về tính không đầy đủ”.
Định lí này quả thật chẳng khác gì cú sét trong thế giới toán học. Godel
đã chứng minh rằng logic có những giới hạn và rằng giấc mơ của Hilbert
(biết chứng minh một cách chặt chẽ sự nhất quán của toàn bộ toán học) là
một ảo tưởng. Nó cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực khác
của tư duy như triết học hay tin học. (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
* Từ khi khoa học hiện đại ra đời vào
thế kỉ XVI, vốn tri thức của chúng ta đã tăng lên theo hàm mũ, nhưng nó
không làm cho chúng ta tỏ nên minh triết hơn.
Tình hình càng trở nên cấp bách khi con người hiện nay đang có khả năng
sẽ làm đảo lộn sự cân bằng sinh thái của toàn bộ hành tinh, thậm chí còn
có thể tự hủy diệt mình, khi các vấn đề đạo đức ngày càng trở nên gay
gắt, và khoảng cách giàu nghèo vẫn không ngừng nới rộng thêm… (Trịnh
Xuân Thuận; sách đã dẫn).
* Nghiệp có thể chuyển thành chiếc
chìa khóa để tìm hiểu chính bộ não. Các nhà thần kinh học lúng túng
trước cái họ gọi là “hiệu ứng liên kết”, một lực lượng huyền bí kết nối
các vùng khác nhau trong não lại. (…).
(…) Chúng ta đều mang trong tâm trí mình một cơ sở dữ liệu thông tin
rộng lớn mà chúng ta coi là nền tảng. Cơ sở dữ liệu này nắm giữ mọi thứ
quan trọng mà chúng ta tin tưởng về thế giới. Đó là thế giới quan của
chúng ta. Chúng ta phụ thuộc vào nó để sống sót thậm chí một thời gian
ngắn. Các niềm tin phát triển qua nhiều thế kỉ, và do vậy một số nhà
nghiên cứu coi niềm tin như bản thể dạng “gene ảo” trở thành các đặc
tính cố định của bộ não. (…).
(…) Thế giới quan cung cấp lối mòn cho hành vi, không may là nhiều khi
nguy hiểm. Các đặc tính như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự hiếu
chiến tồn tại như các phản xạ tự nhiên. (…). Đây chính là cái
Bhagavad-Gita ngụ ý với tên gọi là hiệu ứng trói buộc của nghiệp. (…).
(Deepar Chopra-tiến sĩ y học, giảng dạy ở Đại học Boston. Sự sống sau
cái chết: gánh nặng chứng minh; Trần Quang Hưng dịch).
* Cho tới đây chúng ta chỉ mới nói cái
tác dụng bóp méo của dồn ép; còn một phương diện nữa mà ta phải đề cập
đến không đưa đến bóp méo, nhưng biến một kinh nghiệm thành phi thực
bằng tác động của não. (…).
Tiến trình tác động óc não này được nối kết với tính chất mơ hồ của ngôn
ngữ. Ngay khi tôi bày tỏ một cái gì bằng một chữ, một sự vong thân xảy
ra, và trọn cả cái kinh nghiệm đã bị cái chữ ấy thay thế. Trọn cái kinh
nghiệm chỉ thực sự hiện hữu vào cái giây phút nó được biểu thị bằng ngôn
ngữ. Cái tiến trình thông thường của tác động óc não tỏa rộng và mãnh
liệt trong văn hóa hiện đại hơn bất cứ lúc nào trước đây trong lịch sử.
Chính vì càng ngày người ta càng đề cao kiến thức trí năng (…). (Erich
Fromm-nhà phân tâm học. Thiền và phân tâm học (nhiều tác giả); Như Hạnh dịch).
* Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các
ngôn từ khi một điều gì đó được truyền đạt từ người này sang người khác,
nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ suông chứ không phải là chính sự
thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để đi vào
trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng.
Nhưng quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi
sự. (Daisetz Teitaro Suzuki-thiền sư học giả. Nghiên cứu Kinh Lăng Già;
Thích Chơn Thiện & Trần Tuấn Mẫn dịch).
* Một vài năm trước đây, một thí
nghiệm với các con mèo con đã được các nhà khoa học tại Trường y khoa
Harward thực hiện. Ngay từ khi sinh ra, người ta đã nuôi một số mèo
trong một khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang; tất cả các tác nhân kích
thích thị giác trong môi trường của chúng đều nằm ngang. Một nhóm khác
được nuôi trong một khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và đó là tất cả
những gì mà chúng có thể nhìn thấy.
Khi những con mèo này lớn lên, trở thành những con mèo già khôn ngoan;
còn những con mèo chỉ tiếp xúc với những vạch ngang thì chỉ nhìn thấy
thế giới nằm ngang, ví dụ như chúng va đụng vào những chân đồ đạc như
thể những cái chân này không có ở đó. Những con mèo được nuôi dưỡng
trong thế giới thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự với thế giới ngang.
Lẽ đương nhiên những điều này không có gì liên quan đến hệ thống lòng
tin ở những con mèo này. Khi người ta nghiên cứu trí não của chúng, một
nhóm mèo sẽ không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới
ngang, còn nhóm kia cũng không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy
thế giới thẳng đứng.
Sự trải nghiệm giác quan ban đầu của những chú mèo này và cách thức
chúng hiểu sự trải nghiệm đó theo nhận thức của chúng ngay từ những ngày
đầu mới sinh khi thị lực của chúng phát triển, đã thực sự hình thành sự
phân tách hệ thần kinh của chúng. Rốt cục, những chú mèo này chỉ nhận
biết được những gì mà người ta đã tạo ra cho chúng và chúng nhận biết
được lập tức.
Một số nhà tâm lí học đã có thuật ngữ rất thú vị về hiện tượng này - họ
gọi nó là “sự cam kết nhận thức sớm”. Sớm là vì chúng ta tiến hành việc
này ngay từ giai đoạn đầu cuộc sống của chúng. Nhận thức là vì nó ảnh
hưởng đến sự phân tách hệ thần kinh mà chúng ta nhận ra hay nhận biết về
thế giới. Và sự cam kết là vì nó cam kết với chúng ta một thực tế nhất
định.
Một số nhà khoa học có thể nói với bạn rằng ngay lúc này hệ thần kinh
bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận dưới một phần tỉ của các tác nhân kích
thích hiện hữu. Các tác nhân kích thích mà hệ thần kinh của bạn tiếp
nhận được là những tác nhân tăng cường sự vận động, ý tưởng, cách hiểu
của bạn về những gì mà bạn nghĩ là tồn tại ngoài kia.
Nếu bạn đã có cam kết với thực tế thì những thứ mà tồn tại bên ngoài
khung cam kết sẽ bị hệ thần kinh của bạn loại ra, hệ thần kinh mà bạn sử
dụng để tạo ra sự quan sát.
Tuỳ thuộc vào loại cơ quan thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc vào loại hình
các sự quan sát mà bạn muốn tạo ra và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn
tạo ra những quan sát này, tuỳ thuộc vào tất cả những điều đó, bạn tiếp
nhận một phần giới hạn nhất định của thực tế. Rốt cục, hệ thần kinh của
con người chỉ có thể tiếp nhận bước sóng ánh sáng từ 400 đến 750
nanomet. Và nếu chúng ta ngẫu nhiên đồng ý với các quan sát từ các giác
quan của chúng ta và sự lí giải cho những quan sát này, thì chúng ta đã
tạo ra một khuôn khổ cho những lí giải mà chúng ta thống nhất.
Chúng tôi gọi phương pháp này là “khoa học”. Chúng tôi thường coi khoa
học như là một phương pháp khám phá sự thật khi mà trên thực tế, khoa
học - như cách nó được kết cấu và hoạt động cho đến nay - thực sự cũng
chẳng phải là một phương pháp để khám phá sự thật. Nói đúng hơn, nó là
một phương pháp khám phá khung khái niệm hiện tại của chúng ta về những
gì chúng ta cho là sự thật. (…). (Deepak Chopra-tiến sĩ y học. Vật lí
lượng tử và ý thức (Trí tuệ nổi trội); Vũ Thị Hồng Việt dịch).
* Nền vật lí này bây giờ đã thấy vũ
trụ là một mạng lưới với những liên quan vật chất và tâm linh chằng
chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái
toàn thể.
(…) Ngày nay vật lí hiện đại đã phát triển một thái độ rất khác. Nhà vật
lí đã nhìn nhận rằng, tất cả lí thuyết của họ về hiện tượng tự nhiên,
kể cả những quy luật mà họ mô tả, tất cả đều do đầu óc con người sáng
tạo ra; tất cả là tính chất của hình dung của chính chúng ta về thực
tại, chứ không phải bản thân thực tại.
(…) Trong vật lí lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể
chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn trong đạo học,
trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa người quan sát và vật
bị quan sát hoàn toàn xoá nhoà, trong đó người và vật hoà nhập làm một.
(…) Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay đổi
sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi từ tâm can - từ ý định ngự
trị và điều khiển thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động.
(Fritjof Capra-giáo sư tiến sĩ vật lí. Đạo của vật lí; Nguyễn Tường Bách
dịch).
* (…) Dần dà trong quá trình tiến hoá
trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là khối năng lượng tâm thần kết
đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một
khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối
liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia
(…).
(…) Liệu con người trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia
không? Sau khi tạo bộ gen và nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con
người (sinh đẻ đứa trẻ) trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho mình chức năng
tư duy chủ yếu. Trong quan niệm tôn giáo, khi đứa bé chào đời đu-khơ
nhập vào đứa trẻ và ấn định những năng lực tư duy chủ yếu của con người.
Nghĩa là, chúng ta suy nghĩ chủ yếu nhờ vào đu-khơ sống ở thế giới tế
vi. Nhờ năng lượng thế giới vật thể (ăn uống) não người có khả năng vặn
các trường xoắn của thế giới tế vi và như vậy hỗ trợ đu-khơ trong quá
trình tư duy.
Ngoài ra, não còn tạo các trường xoắn phụ hình thành đu-sa (sinh trường)
ở dạng các thể thanh bai và các thể khác hỗ trợ cơ thể người hoạt động.
Sau khi xác thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể thanh
bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống
ở thế giới tế vi để rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới. Vậy là con
người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể nhờ các “nỗ lực” của
thế giới tế vi, là sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể
và thế giới tế vi.
Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (nghiệp), tức là các “vết tích”
của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật
thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…) Chính con
người khác biệt với con vật ở chỗ: bộ máy tư duy của con người có nhiệm
vụ hoàn thiện đu-khơ (đưa vào đó nhiều thông tin xây dựng) và bằng cách
đó, hoàn thiện hình thái sự sống ở thế giới tế vi. Nói cách khác, là đứa
con thể xác của sự sống nơi thế giới tế vi, con người có sứ mệnh thông
qua thế giới vật thể thúc đẩy sự tiến bộ nơi thế giới tế vi. Con người
được tạo ra cũng là bởi lẽ đó. (…)
(…) Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng thay con người
độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với hi vọng, sau khi con
người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai tái sinh trở thành
người tốt hơn, thiện hơn. Vì vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục và
thiên đường có cơ sở. (Erơnơ Munđasep-nhà bác học lớn quốc tế. Chúng ta
thoát thai từ đâu; Hoàng Giang dịch).
3. Một số trích đoạn (tùy hứng) từ một
tác phẩm có giá trị lớn của ngài Deepak Chopra – một nhà khoa học đáng
kính, một hành giả có sự chứng ngộ. (*)
(Các trích đoạn này góp thêm cảm hứng thăng hoa tâm trí đại thừa, giác ngộ).
* (…) Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm
bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và
các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó.
Đâu đó trong thời không có những bình diện khác nhau đồng thời tồn tại.
(…) Các bình diện tồn tại khác nhau tương ứng với các tần số ý thức khác
nhau.
Thế giới vật chất chỉ là biểu hiện của một tần số nhất định. (…) Thế kỉ
20, khoa học phương Tây tìm hiểu ra rằng mọi vật thể rắn thực ra đều
được tạo nên bởi những rung động vô hình. (…) Cũng đúng như các bình
diện khác nhau của vật chất, tinh thần cũng có những bình diện khác
nhau. (…) Nếu Trái đất là bình diện tinh thần đậm đặc, thì chắc chắn
phải có những bình diện tinh thần cao hơn, chúng tôi gọi là Loka, mà
giới thần bí học phương Tây biết đến như “bình diện siêu hình”. Các bình
diện siêu hình có số lượng dường như vô tận này chia ra thành các thế
giới siêu hình cao hơn và thấp hơn, và thậm chí thế giới thấp nhất cũng
rung động với tần số cao hơn thế giới vật chất.
* Để tìm ra vật chất và năng lượng đến
từ đâu, vật lí học thừa nhận một trường vũ trụ chứa đựng không chỉ
những gì chúng ta quan sát thấy mà cả mọi thứ có khả năng tồn tại. Vật
lí hiện đại thấy thật dễ dàng làm thế giới vật chất biến mất trong hư
vô, nhưng điều này gây hoang mang, cũng hoang moang như sự biến mất của
người chết. Đây là cách biến mất của hòn đá, cây cối, hành tinh hay hệ
thiên hà hoạt động.
Trước hết, hòn đá, cây cối hay hành tinh biến mất khỏi tầm nhìn khi các
nhà khoa học nhận ra rằng các vật chất thể rắn được tạo nên từ các
nguyên tử không thể phát hiện bằng mắt thường.
Thứ hai, các nguyên tử biến mất khi người ta phát hiện ra rằng chúng
được tạo nên từ năng lượng, đơn giản là các rung động trong trống rỗng.
Cuối cùng, năng lượng biến mất khi người ta phát hiện ra rằng các rung
động là sự kích thích tạm thời trong một trường và trường đó tự nó không
rung động mà duy trì một “điểm không” phẳng và bất biến. (…).
(…) Hỗn nguyên vì sao không hoàn toàn
chiếm ưu thế thực sự vẫn là một bí ẩn lớn chỉ có thể được lí giải bởi
Akasha (trường ý thức). (…). Các rishi tập trung vào ý thức như một
nguyên lí vũ trụ. Nhưng để có một vũ trụ biết tư duy, họ cần phải giải
thích trí tuệ vũ trụ hoạt động như thế nào, tự duy trì và tự tổ chức tư
duy ra sao. Nếu “trường trí tuệ” hoàn toàn ổn định, nó sẽ là một vùng
chết, hoặc nhiều nhất là chứa một tiếng ồn liên tục, vô nghĩa. (…).
(…) Từng bước một, vật lí học bị lôi cuốn vào hư vô bởi vì không có gì
trong thế giới hữu hình phù hợp để giải thích điều cần được giải thích.
Điểm không trở thành “trường của trường” chứa đựng mọi hạt vô hình, hoặc
ảo, trong vũ trụ. Theo tính toán, điểm không chứa năng lượng 10 lũy
thừa 40 lần nhiều hơn vũ trụ hữu hình-tức là 40 số không sau số 1. Hư vô
trở thành sự trao đổi năng lượng sôi sục, không chỉ giữa các photon và
electron mà trong mọi sự kiện lượng tử có thể hình dung được. Đột nhiên
cái vô hình trở nên mạnh mẽ hơn cái hữu hình một cách lạ thường. Nhưng
với cách đó “trường của trường” có giống tâm trí, điều mà các rishi đang
tìm kiếm hay không?
(…) Cái thực tế rằng những khoảng không, hay khe hở, giữa các vật liệu
gene thật là quan trọng đưa chúng ta trở lại hư vô, nơi có cái gì đó sắp
xếp các sự kiện ngẫu nhiên sao cho chúng có ý nghĩa.
(…) Có những việc khác mà trí óc có
thể thực hiện tương tự như trong vũ trụ. Trí óc có thể theo dõi hai sự
kiện riêng biệt trong thời gian-ví dụ chúng ta làm thế nào nhận ra một
khuôn mặt đã nhìn thấy vài năm trước.
Tương tự như vậy, vũ trụ theo dõi hai electron trong một đôi bất kì.
Chúng sẽ luôn luôn là một đôi thậm chí chúng cách xa nhau hàng triệu năm
ánh sáng. Thật lạ thường, nếu một electron trong đôi thay đổi vị trí
hay trục quay thì cái khác trong đôi cũng thay đổi cùng một lúc mà không
cần phải truyền một tín hiệu nào đó du hành qua không gian. Trường Điểm
Không truyền tin không theo thời gian, khoảng cách hay vận tốc ánh
sáng. (…).
(…) Vì mục đích tìm kiếm bằng chứng cho cõi sau sự sống, việc chỉ ra ý
thức tồn tại khắp nơi là vấn đề sống còn, bởi vì lúc đó không có nơi nào
chúng ta đến sau khi chết mà không có ý thức.
(…) Nếu tâm trí của chúng ta có thể
thay đổi trường lượng tử thì sao? Khi đó chúng ta sẽ có mối liên kết
giữa hai mô hình, tư duy và vật chất. Mối liên kết này đã được thực sự
đưa ra bởi Helmut Schmidt, một nhà nghiên cứu làm việc cho phòng thí
nghiệm không gian của hãng Boeing tại Seattle. (…) Schmidt đã chứng tỏ
rằng một người quan sát có thể thay đổi hoạt động trong trường lượng tử
bằng việc chỉ sử dụng tâm trí, điều này ủng hộ khả năng tại một tầng
sâu nào đó tư duy và vật chất là một. Khẳng định của các rishi rằng
chúng ta nằm trong trường Akasha (trường ý thức) có vẻ đáng tin hơn, nó
khiến cho khả năng chúng ta không rời bỏ trường này sau khi chết cũng
trở nên đáng tin hơn; nếu không chúng ta sẽ là thứ duy nhất trong Tự
nhiên không là thành phần của trường này. (…).
(…) “Ở cấp độ sâu sắc nhất, các nghiên cứu (Princeton) cũng giả định
rằng hiện thực do mỗi người trong chúng ta tạo ra duy chỉ bằng sự chú ý
của mình. Ở cấp thấp nhất của tư duy và vật chất, mỗi người trong chúng
ta đang sáng tạo thế giới”. (L.M.Taggart). (…).
(…) Akasha có thể được lí giải là một vùng nơi tâm trí hoạt động.
(…) Thứ gì đó sắp xếp chính xác đến
vậy điều cần một nguyên lí để giữ chúng cùng nhau và một môi trường để
đưa thông tin từ một đầu của tạo hóa đến đầu kia. Khái niệm cũ về thinh
không không đủ, nhưng Akasha (trường ý thức) thì đủ.
(…) Mỗi rung động gửi những tín hiệu qua trường, và đến lượt mình trường
gửi các tín hiệu ngược lại. Vũ trụ, hóa ra liên tục tự giám sát mình
bằng cách phối hợp mọi rung động xảy ra bất cứ đâu trong vùng hữu hình
hay vô hình.
(…) Chỉ dưới sự quan sát, một electron
nhảy từ hiện thực ảo vào vũ trụ hữu hình, và hễ khi người quan sát
ngừng nhìn, nó lại rơi ngược vào trường.
(…) Các rishi tuyên bố rằng chết cho
phép chúng ta nhìn thấy hiện thực vĩnh hằng rõ ràng và tham gia vào nó
đầy đủ hơn. Trong cơ cấu của Laszlo, trường Akasha (trường ý thức) hoạt
động y hệt đối với mọi vật chất, năng lượng và thông tin. Các tương tác
của chúng trong vũ trụ hữu hình là những phản ánh của các mối liên hệ vô
hình có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xảy ra ngoài sân khấu. (…).
(…) Khi bạn xem ti vi, cái gì hiện
thực hơn, hình ảnh bạn nhìn thấy hay là trạm phát tín hiệu? Tất nhiên là
trạm phát hiện thực hơn, bức tranh chỉ là hình ảnh. Tương tự như vậy,
Laszlo nói, Trường Điểm Không-Akasha-hiện thực hơn vũ trụ hữu hình.
Akasha (trường ý thức) tổ chức và phối hợp mọi phóng chiếu chúng ta gọi
là thời gian, không gian, vật chất và năng lượng. (…).
(…) Đặt vào các điều kiện của loài người, chúng ta không cần phải sợ cái
chết là một hành vi biến mất bởi vì sự sống luôn là một. Điều chúng ta
quý nhất trong chính mình, khả năng của chúng ta suy nghĩ và cảm nhận,
không phải có từ lúc đi vào thế giới vật chất. Nó được chiếu vào thế
giới vật chất từ một nguồn, Trường Điểm Không, là gốc rễ của ý thức, mở
rộng hàng tỉ năm về trước và hàng tỉ năm về sau có thể dự đoán được.
Hoàn toàn không phải là nhãn quan tôn giáo, mô hình này giải thích vũ
trụ tốt hơn bất kì mô hình nào khác, và cho chúng ta thứ mà các rishi và
các nhà vật lí học hiện đại đòi hỏi: cây cầu bắc giữa tư duy và vật
chất.
* Ngưỡng cửa của nguồn là im lặng.
Nhưng bạn phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực sinh ra. Ở đó
bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ tồn tại, ý thức và tiềm
năng cho các rung động nảy sinh. Ba điều này hiện thực nhất trong vũ trụ
bởi vì tất cả cái khác chúng ta gọi là hiện thực đều từ đó mà ra. (…).
(…) Hiện nay quần chúng được biết rõ
là các nghiên cứu về cầu nguyện chứng nhận là nó có tác dụng. Trong một
thí nghiệm đặc trưng, những người tình nguyện, thường chọn trong các
nhóm nhà thờ, được đề nghị cầu nguyện cho người ốm trong bệnh viện. (…) .
Kết quả của các thí nghiệm này lạc quan đến kinh ngạc. Trong một trường
hợp biết rõ nhất, tiến hành tại Đại học Tổng hợp Duke ở Bắc Carolina,
các bệnh nhân được cầu nguyện nhanh chóng phục hồi hơn và có ít di chứng
hơn các bệnh nhân không được cầu nguyện. Ở đây chúng ta có thêm một
chứng minh là tất cả chúng ta được kết nối với nhau trong cùng một
trường ý thức. Các đặc tính của trường này vận hành lúc này và ở đây:
Trường hoạt động như một tổng thể.
Nó liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.
Nó nhớ mọi sự kiện.
Nó tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Nó sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.
Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng tiến hóa.
Nó là ý thức.
(…)Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe
hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe
hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên
kết mọi sự kiện.
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy
thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một
thể xác. Trước hết chúng ta là tâm trí và tinh thần, và điều đó đặt ngôi
nhà của chúng ta ra sau các vì sao.
Biết rằng rồi một ngày mình sẽ quay về vùng để tìm nguồn gốc khiến tôi
tự tin vô hạn vào mục tiêu cuộc sống. Cũng nhiệt thành như một tín đồ
sùng đạo, tôi tin vào quan niệm này. Lòng tin của tôi luôn đổi mới mỗi
lúc tôi có một khoảnh khắc chứng nghiệm đưa tôi chạm đến sự tĩnh lặng
tồn tại của chính mình. Khi đó tôi không còn mảy may sợ hãi cái chết –
mà thực ra, tôi đang chạm vào cái chết ngay lúc này, một cách vui vẻ.
Nhà thơ Tagore nói về nó hết sức xúc động:
“(…) Và bởi vì tôi yêu cuộc sống này / Tôi cũng sẽ yêu luôn cái chết”.
* Khoa học ủng hộ tuyên bố rằng trường có khả năng nhảy vọt sáng tạo và chuyển hóa vô tận. (…).
(…) Hóa ra nếu anh chỉ cần nghĩ về cỗ máy SQUID, không hề tìm cách thay
đổi nó, thiết bị ghi cho thấy sự thay đổi trong từ trường xung quanh.
(…).
* (…) Những người nghi ngờ khả năng
tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô số những nghiên cứu cho thấy ý nghĩ
thông thường có thể thực sự tác động đến thế giới. Điều này đặc biệt
quan trọng nếu tâm trí là trường.
* (…) Các bậc thánh nhân và hiền nhân
có đặc quyền hiện diện đi đó đây tự do trong các cõi siêu hình mà không
bị hạn chế bởi các ham muốn. Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai
thế giới, và nếu những người thương yêu bị bỏ lại cứ cầu nguyện gọi hồn,
cứ đau khổ, hoặc toan tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp
tục xốn xang.
* (…) Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn tại của các thế giới vô hình. Hoàn toàn ngược lại.
* (…) Tiếp theo, như người chết đuối
nhìn thấy cả cuộc đời mình trôi qua trước mắt, nghiệp của một người bung
ra như chỉ gỡ khỏi suốt, và các sự kiện của cuộc đời này diễu ngược lại
qua màn ảnh của tâm trí. Bạn thể nghiệm lại tất cả các thời điểm trọng
đại từ khi sinh ra, chỉ có điều lúc này rất sinh động và rõ ràng khiến
bạn nhìn thấy chính xác từng thời điểm có nghĩa gì. Cái đúng và sai cũng
hiển hiện rõ ràng, không có sự tha thứ hay những giải thích duy lí. Bạn
chịu trách nhiệm cho mọi điều đã làm. (…).
* Có thể là ý thức không nằm trong bộ
não. Đó là một khả năng gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm
linh cổ đại nhất thế giới.
(…) Điều làm cho sự đảo ngược này quan
trọng là nó phù hợp thực tế. Các nhà thần kinh học chứng thực rằng đơn
giản một ý định, một hành vi có mục đích của ý chí có thể thay đổi bộ
não. Ví dụ những nạn nhân đột quỵ, có thể ép mình, với sự giúp đỡ của
bác sĩ, chỉ sử dụng tay phải của họ nếu chứng liệt xảy ra về bên đó của
cơ thể. (…).
* (…) Ramana học cách nhập nội trong
cái định để thể nghiệm im lặng, và sau nhiều năm, nó đến với anh, nơi
giải thoát khỏi hoạt động thường xuyên của tâm trí. (…).
(*): (Trích trong Sự Sống Sau Cái
Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; tác giả: Deepak Chopra; dịch giả Trần Quang
Hưng; NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2010 ).
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn) sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (XemTuong.net)