Tên gọi: Đá được đặt tên như vậy là do có màu
sắc đặc trưng (Theo tiếng La Tinh Rubeur - “Màu đỏ”) do crom oxit tạo ra.Thuật
ngữ “Rubi” với ý nghĩa hiện đại của nó bắt đầu được nhà khoáng vật học Valerius
đưa vào sử dụng năm 1747. Trước đó người ta sử dụng các từ “Ruber” hoặc
“Ruberus” để chỉ cả granat lẫn rubi và spinen đỏ. Ở Việt Nam, ta quen
gọi chúng là hồng ngọc hoặc ngọc đỏ. Tên gọi khác, biến thể:
Corundum đỏ quý -
Tên đồng nghĩa của rubi. Manikia - Rubi trong tiếng Sanskrit dịch nghĩa là “Vua
của các loại đá quỷ”. Ratnanajama - Tên gọi khác của rubi trong tiếng
Sanskrit có nghĩa là “Chúa tể của các loại đá quý”. Yakhont - Tên gọi rubi và các loại đá quý màu đỏ khác
trong tiếng Nga cổ. Những đặc điểm chính: Màu đỏ với nhiều sắc độ khác nhau, có
khi chuyển sang sắc hồng, tím, vàng... Thường gặp những dạng tinh thể có hình
tonno, hình trụ lưỡng tháp, có khi kích thước khá lớn (bán kính tới dm). Trên
bề mặt của lăng trụ và lưỡng tháp có vết vạch chéo. Trong các trường hợp khác
thấy những vết sọc nằm ngang do song tinh theo song diện. Các tinh thể rubi
thường phân bố tản mạn trong đá nhưng cũng gặp những khoáng sàng mà nó tạo
thành khối hạt đặc sit. Tính chất vật lý - Độ cứng: 9,0 - Tinh hệ: Sáu phương - Tỷ trọng: 3,95 - 4,10 g/cm3 - Ánh: Thuỷ tinh Tính chất chữa bệnh: Từ thời xa xưa, rubi đã được gán cho
những tính chất siêu nhiên, trong đó có khả năng ngăn ngừa các căn bệnh nặng và
tạo cho cơ thể nguồn năng lượng. Người ta cho rằng rubi chữa các bệnh về tim,
não, làm tăng thêm sức mạnh và trí nhớ của con người. Trong một cuốn sách cổ
cúa Nga kể về các loại đá quý có nói về rubi rằng loại đá này “đuổi khỏi cơ thể
người mọi loại bệnh tật, giũ gìn sức khoẻ”. Người ta gán cho rubi cả tác dụng
giải độc. Những viên đá này dường như cứu người chủ của nó thoát khỏi các loại
chất độc. Các nhà thạch học trị liệu hiện đại nói rằng rubi có
vai trò to lớn trong việc điều trị nhiều loại bệnh khác nhau. Cho rằng, rubi có
khả năng chữa các bệnh về máu, viêm hạnh nhân mãn tính, bệnh ở cột sống và
khớp. Ngoài ra, còn nhận thấy khả năng của rubi trong việc ngăn ngừa những cơn
động kinh, có ảnh hưởng tốt tới hệ thần kinh. Loại đá này có khả năng chứa
chứng trầm uất, có tác dụng trong điều trị bệnh mất ngủ và tâm thần phân liệt.
Khuyên không nên đeo rubi trong các trường hợp khi cơ thể bị dư thừa năng lượng
khới đầu của “Dương”, bị rối loạn thần kinh và tăng áp lực động mạch. Trong
trường hợp này tốt nhất là nên thay nó bằng loại đá mang tính Thuỷ để “làm mát”
và điều hoà cân bằng năng lượng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Hoa (XemTuong.net)