Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được
hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ
nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng
đáng.
1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh
tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách
qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống
vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật
trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu
vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả.
Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn. Kịp
cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá,
có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có
âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn
theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ
Bách thố vậy. Sau
sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam
công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái
bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như
vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình
cháu chắt còn có nhiều người hiền.
2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm
huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời
ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu
chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện
quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không
biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu
thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo
nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm
pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được
phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan
huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ. Nhà
rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù
nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa
tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù
ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương
lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ
Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao
như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ. Về
sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ
Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam
Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm
liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những
danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay
Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó. 3. Xưa
vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc
Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai
người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô
hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy
sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh. Tạ
Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo
phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước
hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh
cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn
người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan
đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa.
4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc
thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có
vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến
xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm
liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố
thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của
nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý,
nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể
như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ.
Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời
quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là
chẳng khoa bảng đề danh cả. 5.
Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời
mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một
người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy
nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về
cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí
thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời
nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn
đặt tên Kỳ. 6.
Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên
học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú
thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe
quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép
gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người
thế thân rồi. Ông
ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một
bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút
tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả
được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép
gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy
như thuở ban đầu. Ông
lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài
kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại
hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều
điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó
họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày
càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình
tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với
người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông
chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không
chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay
thật là nhiều vô kể.
7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng
Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc
quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra
phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa:
ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân
lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó
Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân. Phụ
thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo
hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết
sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp
tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không
sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng
Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ.
8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu
giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại
tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự
lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức
thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại.
Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải
oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó
ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công
minh. Ông
lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan,
thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có
người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình
quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải
oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề
nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người
được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người
số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên
thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm
đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan
chức hiển hách cả.
9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông
làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể
ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học
rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện
khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão. Một hôm đi
du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng
nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi
đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa
cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc
tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác.
Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang,
và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy
tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì
Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có
ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích
rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều
khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công
việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng
thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng
lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa,
đỗ đạt, quan chức hiển hách.
10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình
sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương
hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt
muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo
đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ,
hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy. Người
vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và
bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình
giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến
nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực
hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm
thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp
lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi
Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở
Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức
phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh. Mười
chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác
nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành. II–Thế nào là thiện ? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện. Nếu
xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng
có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay
chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn
luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc
mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư
một cách vô ích. Thế nào là chân thiện và giả thiện?
Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng
triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng
theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện
mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại
phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao? Hòa
thượng nói: Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh
tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện;
người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho
ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn
trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư. Bọn nho sinh
lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác,
sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử
ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong
bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người
là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho
là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết
là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần
lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo
không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng
giải cho. 2. Định nghĩa chữ thiện Hòa
thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện,
còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù đánh hay
mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình dù tôn kính,
lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc thiện mà có
lợi ích cho người là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân, còn tư
là giả. Lại
nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành là chân thiện, còn
hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ
tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền
đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng. Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc?
Nay ta thấy một người cẩn thận dễ bảo mà vội phân loại ra cho là thiện
nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà
dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ
còn hơn. Người cẩn thận dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt,
nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ
không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức.
Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ
ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy. Suy
rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người
đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là
phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà
khác biệt hẳn với người phàm tục. Phàm
muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã
được thanh lọc hết ý ác, quyết không để nhĩ mục sai khiến hành thiện vì
tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có
chút lòng mị thế, lấy lòng người để được danh vọng, tiền tài thì là hành
động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn
có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận
tường tận. Thế nào là âm thiện, dương thiện?
Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương
thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên
địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả
báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã
được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo
hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực
sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải
nhiều tai họa bất kì xảy ra. Người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu
mang tiếng xấu một cách oan uổng thì con cháu họ sẽ được đáp đền, mau
chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện cần phải cẩn
thận suy xét cho kỹ. Thế nào là phải và chẳng phải? Nước
Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các
nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức
Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng
nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi,
thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi
tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý
làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít,
người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm
khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc
người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về
nữa. Tử
Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một
con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ
nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con
mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử
Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người
phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người
hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành
động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến
lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà cũng chẳng
nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại
chúng nữa. Việc
làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho
người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy
chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy
ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây
chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà
thôi. Tuy nhiên, ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là
hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa,
không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng. Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa,
ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng
bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượi
mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp
làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử
hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà
ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng
giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó
chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi
dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay
vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác. Lại
nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm
mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ,
báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng
hành. Gia đình nọ bèn tự xử sự cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị
tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm
loạn. Sở
dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch
nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên
gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện,
đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật
rõ ràng. Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh
Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được
danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa
sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì
thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu
chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì
vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như
vậy. Xưa
có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có
tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích
thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung,
tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng
dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi.
Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai
đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng
dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị
hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ
tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng
thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá
hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ
thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ
hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà
lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi.
Trên đây là một thuyết nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy
vậy. Chung
Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có
thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có
thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ
trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại
cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly
Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ
một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại
thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy. Hơn
nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ
tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi
là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ
hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp
người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần
biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số
tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với
tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô
lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp
của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm
thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn
lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết
nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi. Thế nào là đại và tiểu?Xưa
Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm
phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và
ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều,
còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm
vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại
nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân
thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại
có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một
tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại
hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo:
Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn,
nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt
thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu
trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là:
Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi
là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị
sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức
của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm việc
lợi ích cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ
mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì
tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy. Thế nào là khó và dễ?Các
vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình
thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử
bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ
chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng
làm xong. Như
ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy
học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ
được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là
chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi
đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến
cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại.
Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng
sẽ được hậu. Phàm
những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là
dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn
làm phúc thì thật là khó, khó nhưng mà làm được, đó mới thực là đáng quý
vậy. 3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện
Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành
thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có
10 loại như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ
lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư,
khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu,
kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám,
giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười,
thương tiếc mạng sống loài vật. Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?Xưa
vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch,
đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ
nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn
cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng
không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ
thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người
khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có
lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa. Ôi,
vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo
hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm
gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo
dụng công của vua Thuấn vậy. Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người; chẳng
nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy
mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí
cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong
coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy
người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy. Một
là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy
kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể
chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay,
không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật
lại cho mọi người cùng hay biết. Phàm
những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều
không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi
cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân
tử coi thiên hạ là công mà mình là tư. Thế nào là giữ lòng kính mến người?Người
quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn
lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn
tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng
trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn
tâm vậy. Chỗ
tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái
con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh
trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục
tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta,
đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân,
hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ,
nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh
hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông
hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh
hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà
tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý
muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của
thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh
nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy. Thế nào là thành toàn việc thiện của người?Một
hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu
đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan.
Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của
họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc
khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ
hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ,
cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi. Đại
khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình,
chẳng hạn như ác không ưu thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người
trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện
ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào
kiệt, thông minh tài cán, tính tình cương trực không trọng bề ngoài,
không ưu tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình;
vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị
nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ
được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho
người thì công đức thực là lớn lao vô cùng. Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con
người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh
mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì lợi danh. Đối với những người
còn mải mê tham danh, tham lợi, tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để
cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua
một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống
như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong
trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng. Hàm
Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người
làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt
qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm
về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành
tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống
như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có
hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình
hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên
tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà
không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua.
Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy
thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không
nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được
mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu
biết, không có trí tuệ vậy. Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người
ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà
ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là
mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất
ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi
Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người
gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói
của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy. Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn?Nhỏ
như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến
thiết có lợi ích c
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (XemTuong.net)