Ở nước ta, từ lâu, tết Trung Thu đã biến thành ngày Tết Nhi đồng.
Trẻ em được ăn bánh ngọt và vui chơi trong đêm với nhiều loại lồng đèn
hình dáng, màu sắc khác nhau.
Người Việt ảnh hưởng tục lệ của người Hoa nhưng lễ cúng thần Thái Âm đơn
giản hơn. Lễ vật cúng gồm có trà, bánh, hương hoa, không có bưởi, khoai
môn và đậu phộng như lễ vật của người Hoa.
Tết Trung Thu là cái Tết lớn thứ ba trong năm. Từ hình ảnh tròn của vầng
trăng, con người thuở xưa đã ký thác tư tưởng của mình thành một biểu
tượng: đó là chiếc bánh tròn mà người ta gọi nó là Nguyệt Bính hay Bánh
Vầng Trăng. Ngắm trăng thu mà không ăn Nguyệt Bính sẽ là vô nghĩa.
(h.1)
Về mặt ngôn ngữ, người ta lại liên kết
cái ý niệm "Tròn" (viên) của Trăng với cảnh quây quần "đoàn viên" của
con người qui tụ ăn mừng để thưởng Trăng. Rồi từ ý niệm này, lại nảy
sinh ra huyền thoại ông già dưới trăng "Nguyệt lão" chắp mối tơ hồng để
trai gái kết hôn.
Vầng trăng dịu dàng tượng trưng
cho nguyên lý Âm, chủ về phụ nữ, nên vào đêm rằm Trung Thu, phụ nữ Trung
Hoa thường bầy tiệc cúng Trăng với hương đèn và mâm ngũ quả cùng Nguyệt
Bính, đặc biệt nếu cúng dưa hấu thì không nên bổ đôi mà phải lấy dao
tiả thành hoa sen (vì kiêng cữ ý niệm "phân qua" tức là chia rẽ phân
ly). Tục này truyền qua Việt Nam, ngoài Bắc trở thành tục bày cỗ thưởng
nguyệt với bánh mặt trăng và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả trong mùa,
đặc biệt phụ nữ trong nhà có dịp trổ tài phụ xảo nữ công bằng cách gọt
đu đủ thành các thứ hoa nhuộm phẩm sặc sỡ hay nặn bột thành những con
giống như tôm, cua, cá.
Một điểm đặc biệt là trên nắp các hộp bánh Trung Thu bán ở thị trường
thường vẽ những bức hoạ như Hằng Nga Ngọc Thố Quảng Hàn cung hay Đường
Minh Hoàng du Nguyệt Điện để thể hiện những huyền thoại liên quan đến
mặt trăng.
Ở Việt Nam từ xưa đến nay, bánh Trung Thu gồm hai hình thức: dẻo và nướng.
Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước
hoa bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân làm bằng
hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái
Việt Nam hơn bánh nướng. Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc
hơn trong Nam. Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc
mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong
biểu tượng của ý nghĩa "đoàn viên của gia đình" và nhất là tình yêu
khắng khít vợ chồng.
(hin. banhdeo)
Bánh nướng Trung Thu hầu
như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt gốc Hoạ Hình dáng bánh
nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một
cái hộp giấy vuông. Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn với trứng gà và
chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh, khoai
môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt
muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm
bông, thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao.
Một điểm cần biết là những chiếc bánh nướng Trung Hoa mà chúng ta quen
ăn ở Việt Nam hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại chính là
thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với
những đặc điểm sau: vỏ bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn về
nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú.
Về mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vỏ khô cứng mà
phải chờ ba ngày sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra làm bánh ăn mềm và
thơm ngon. Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một
tháng nhưng điều kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng
hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và làm sình bụng.
(hình. banhnuong)
Về sự tích bánh trung thu còn được kể lại như sau:
Huyền thoại thứ nhất: Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu ban cho viên thuốc
trường sinh để sống lâu bảo vệ thế gian. Nhưng Hằng Nga lại lén ăn cắp
thuốc này và bay tuốt lên mặt trăng. Trên mặt trăng, Hằng Nga làm bạn
với một con thỏ ngọc đứng dưới gốc cây. Không khí trên mặt trăng vốn
lạnh buốt nên do đó được gọi là Quảng Hàn cung. Hằng Nga bị lạnh nên
phải ho làm viên thuốc trường sinh văng ra khỏi họng. Nàng bèn nghĩ nên
lấy viên thuốc này giao cho con thỏ giã nhỏ ra thành bột mà rắc xuống
thế gian mà để thiên hạ cũng được trường sinh.
Huyền thoại thứ hai là về vua Đường Minh Hoàng là người rất muốn luyện
phép tu tiên. Chính tục lệ treo đèn và bầy cỗ vào đêm rằm tháng Tám vì
đó là ngày sinh nhật của ông nên truyền cho thiên hạ khắp nơi phải làm
thế để mừng cho ông. Chính vào đêm rằm này, ông ra lệnh cho viên đạo sĩ
La Công Viễn làm phép thế nào để ông du hồn lên chơi trên mặt trăng.
Truyền thuyết kể rằng đạo sĩ này đã cho ông uống một liều thuốc gì đó
rồi nói vua kê đầu vào một cái gối đặc biệt trong một khung cảnh mờ ảo
có đốt hương trầm phảng phất. Quả nhiên, nhà vua trong chốc lát thấy hồn
mình nhẹ nhàng bay bổng lên vùng Nguyệt Điện rồi chứng kiến một bày
tiên nữ lả luớt nhảy múa ca hát trong những bộ xiêm y theo bảy sắc của
cầu vồng. Lúc tỉnh dậy, nhà vua bèn nhớ lại bắt chước mà sáng tác ra
khúc nhạc Nghê Thường Vũ Y Khúc (Nghê là cái cầu vồng, Thường là cái
xiêm váy). Khúc nhạc này rất nổi tiếng và lưu dấu trong thi văn hậu thế
và ngộ thay, vua Đường Minh Hoàng đầy nghệ sĩ tính lại được giới nghệ
thuật ca vũ Trung Hoa đời sau suy tôn là "Thánh tổ" của nghề nghiệp của
họ.
Theo Yêu du lịch
Trích từ nguồn: danong.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (XemTuong.net)