Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường
xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như
lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi,
khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm
lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền
con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi
chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực
dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng
Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm
trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về
sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ,
trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi
năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm
lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm
tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc,
bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra
những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12)
Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ,
Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ
dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại
phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã
xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin
minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác
đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi
đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho
những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để
cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính
của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường
quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung
hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái
niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải
thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar
calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng
không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện
cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh
Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm
(khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ
một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm
lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước
Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để
làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng
gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường
xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay
đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là
do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực
Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều
người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa
là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật
thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào
lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa
đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy
được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ
20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách
đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay
vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt
trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của
Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa
trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng
nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do
dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch.
Theo đúng như
trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách
đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm
tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh
và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều
cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc
chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ,
âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa
có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát
triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời
"Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới
có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý
số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu
hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán,
sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền
văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ
đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chínhsử ghi
lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ
thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể
động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo
tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược
thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình
thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng
trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng
đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa
học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay
thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là
phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa
học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát
triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình
tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao
đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng
góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của
Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy
ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v.
có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về
những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng
đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài
dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối
phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai
trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ
môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến.
Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới
bây giờ!
Phương pháp soạn Âm lịch
Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.
Giai đoạn I:
Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử.
Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng
như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai
này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm
tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai
tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm
thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm
tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết
thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất
lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn
nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả
iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những
năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và
dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con
nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị
thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận
chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết
Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để
không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều,
thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài
chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi
chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường
dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách
thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu
dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn
minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịch
số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ
dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây
giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời
vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng
bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa
trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng
từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là
việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy
nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ
nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong
bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II:
Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này
văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh
gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay
khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ,
và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục
tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để
quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ
kiện căn bản như sau:
Trong những đêm
tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài
trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố
định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống
vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả
ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và
sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái
dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời
và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh.
Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc
tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy
được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh
(Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp
ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái
(Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .
Ðể tìm hiểu về 5
hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó
đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị
trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất
để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng
hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao,
có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính
xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ
có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo
lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân
trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều
kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở
giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng
hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến
các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó
chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn
"tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà
ra.
Dù bằng cách nào
thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm
tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một
chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu
cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong
Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình
nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói
trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại
gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu
năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung
một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên
quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra,
nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ
60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong
bảng lục tuần hoa giáp.
Sau đây là bảng
tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo
thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:
Dựa vào bảng tính
toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng
chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60
năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và
Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút.
Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số
lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 -
0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người
quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ
chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất
nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng
trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ
(số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7
tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái
đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao. Như vậy, với một
vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh
gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành
tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai
sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào
tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần
tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày
nay.
Tuy nhiên cũng
xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa
đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị
giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037
cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay
đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng
phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của
chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong
thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)
Nhân đây cũng nên
nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả
nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin
vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều
chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là
có "Thánh nhân" hay bậc đế vương
sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD)
vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình
vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái
đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra
sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay
thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi
phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là
họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ
dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói
trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số
những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài
xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết,
nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng
giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra
nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong
môi trường tốt hơn!
Nói chung với
cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có
chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ
tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung
gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung
một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)
Ðiều cần biết
thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách
khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng
đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay
luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống
như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh
(Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng
theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là
sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ
tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và
có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại
càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ
hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các
chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài
trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất
đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì
vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn
gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2,
3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số
chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại
sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại
thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin
miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực
nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ
các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất
trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng
đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay
đổi của "Thượng đế", nên
gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12
mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia!
Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay,
nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một
năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên.
Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số
5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi
vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng
chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ
như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh
với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh
hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ
hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có
liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc,
gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh
vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và
Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được
sáng lắm!
Tóm lại hệ thống
Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày,
Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa
chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên
can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận
thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9
đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà
soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập
Đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn
một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả
các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định
trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin
hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong
dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ
rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người!
Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện
tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung
hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ
không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử
Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm,
Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã
khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác
như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được
người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học
của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay
các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến
xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng
vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ
đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay
viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh.
Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít
nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước
gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý
thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh
hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay
thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một
ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh
ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả
các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn
cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự
nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như
sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng
hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung
mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG
thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt
trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là
họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược
với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn
cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có
thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên,
họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản
thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người
cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo).
Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích
được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất
xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt
thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh
sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường
hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo
lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa
vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh
và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều
này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt
thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày,
các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong
chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới
đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG
đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái
đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn
cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý
do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng
trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt
trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên
trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo
chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng chứng
trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận
hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh
ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích
rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do
ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi
trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do
cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ:
Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố
là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời,
Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau
khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các
TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay
thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết
sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là
một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các
TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm
(hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm.
KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các
nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng
mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người
nào.
Vòng Thái tuế:
Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi,
có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố
quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo
quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến
thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng
Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì
đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát
và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái
dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh
hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất
là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo
năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa
học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính
nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ
nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây
số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc
tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái
đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường
của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ
trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não
bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy
năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh
vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có
khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ
điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ
con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử
vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại
cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì
người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm
chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung
mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ
Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh
vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó
đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:
Dựa vào hình vẽ
trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ
đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy
nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh
hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại
không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể
là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của
đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông
minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện
chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người
được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do
thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát
Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay
đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn
người rất nhiều !
Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu. Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?) Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này. Nguyễn Cường Sacto 1/ 2003
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (XemTuong.net)