Mầu sắc còn mang đặc trưng sắc thái của
các tầng lớp xã hội khác nhau: Thí dụ mầu vàng là của vua, từ các
quan đại thần cho đến thường dân, cấm không ai được mặc quần áo hoặc
xây dựng nhà cửa màu vàng. Mầu tím là sắc phục của các quan đại thần.
Mầu điều, mầu đỏ dành riêng để tế thần và làm sắc phục cho các cụ
thượng thọ. Mầu nâu sòng là của cửa Thiền dành cho những kẻ quy y Phật
tổ, cũng như mầu đen là sắc phục của linh mục đạo Ky-Tô. Mầu xanh là
của những người còn theo đòi Cửa Khổng sân Trình, của học trò chưa đậu
đạt:
Trong bài thơ La-sơn phu-tử Nguyễn Thiếp gửi Tiến sĩ Nguyễn Khản có câu: Quân kim bào hốt trung triều sĩ, (Có nghĩa là: Nay ngài đã là
khanh tướng trong triều, mà còn nhớ đến bạn học ngày xưa áo vẫn xanh).
"áo vẫn xanh" tức là chưa hiển đạt, vẫn còn là bộ quần áo của người
hàn sĩ. Mầu đào tức mầu hoa đào là của các nàng ca sĩ, cho nên mới có
danh từ "Hát ả đào". Mầu đen, mầu nâu là trang
phục rẻ tiền nhất của quần chúng nông dân. Mầu xanh nhập nội từ đất
nước Trung hoa sau giải phóng gọi là xanh công nhân. ở Việt Nam, từ xưa tới nay,
mầu đỏ, màu vàng, màu hồng, dùng trong trướng đối chỉ dành để chúc
tụng, khao lão, mừng rỡ, còn trong lễ tang chỉ có thể dùng mầu trắng,
mầu xanh, mầu đen, mầu tím.... không hiểu vì sao, gần đây nhan nhản ở
các cửa hàng, trướng điếu (lễ tang) cùng dùng mầu đỏ, mầu vàng rực rỡ,
phải chăng các cụ già chết là đáng mừng, không cần phải an ủi, lưu
luyến, nên chẳng cần dùng mầu đen, trắng, xanh, tím như ngày xưa. Vì
thế mới xẩy ra câu chuyện oái oăm: Có người đi mừng ông ban 70 tuổi
lại mua một bức trướng điếu mầu đỏ thêu 4 chữ vàng "Tiên cảnh nhàn
du", có khác gì chúc cho bạn mình mau chết để chóng được lên dạo chơi
trên cảnh Bồng Lai. Nguyên "Tiên cảnh nhàn du", (Nghĩa là thanh nhàm dạo
chơi trên cảnh tiên) là để an ủi người mới mất từ nay hết nợ trần
gian lên hưởng cảnh tiên.
Cố ngã lâm tuyền khâm thượng thanh....
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (XemTuong.net)