– Thế Lạy Của Đàn Bà III . Ý Nghĩa của Lạy và Vái a. Ý Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái b. Ý Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái c. Ý Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái IV Kết Luận (*) Góp ý thêm :Lời khấn vái là lời
nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của người còn
sống. thì muốn khấn sao cũng được. Tuy nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ
khấn và lời khấn. Lễ khấn gồm các thủ tục như sau: 1. Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì
gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì khăn đống áo dài) đi ra mở cửa
chính. Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa chứ không đóng được cửa kín
mít. 2. Sau đó phải khấn xin Thành Hoàng Thổ địa để họ không làm khó dễ Linh về hưởng lễ giỗ. 3. Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa: Duy …..quốc…..Tỉnh/Thị xa….
trang/gia tại… (số nhà). Việt lịch thứ 488…, thử nhật … (ngày âm lịch)
húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ v.v. là Hiển khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà
thì là hiển tỷ; với ông nội ngọai thì thêm chữ tổ – hiển tổ khảo/tỷ),
Hiếu tử/nữ/tôn v.v là (Tên) tâm thành kính cáo thành hoàng và thổ thần
bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ hôm
nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên,
hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa
ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo. Cúng giỗ Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy
ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ,
tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp
gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ
người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó
người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là
trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài
thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa “Uống
nước nhớ nguồn” việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục. * Ngày cúng giỗ Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay
kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng
có nghĩa là ngày kiêng kỵ. * Mấy đời tống giỗ Theo gia lễ: “Ngũ đại mai thần chủ”,
hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng
tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo. * Cúng giỗ người chết yểu Những người đã đến tuổi thành thân,
thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con
trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết, trở thành phạp tự (không
có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ
chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự.
Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã
khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự. Những người chưa đến tuổi thành thân
(dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục lệ địa phương) sau khi hết lễ
tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không
có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào
cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mân, coi như người
thân còn sốngtrong gia đình. Ðiều này không có trong gia lễ nhưng thuộc
về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với thân nhân đã khuất. Giỗ tết, Tế lễ Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà
nhiều dân tộc trên thế giới mọi vật do tạo hóa sinh ra đều có linh hồn,
mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng của nó.
Mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều
mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái. Ðó là xuất xứ tục
bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở
miền núi nước ta. Ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu
đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là biểu
tượng, nơi ẩn hiện của vị thiên thần hay nhân thần nào đó. Người ta “sợ
thần sợ cả cây đa” mà cúng cây đa, đó không thuộc tục bái vật. Cũng như
người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, lễ Thần,
quì trước long ngai của thần, nhưng thần hiệu rõ ràng, chứ không phải
khúc gỗ hòn đá như tục bái vật. Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết
trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định
danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà,
nhà nào cũng có bình vôi. Khi có dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ
cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng vẫn nắm giữ uy
quyền. Khi lỡ tay làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy
nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở chỗ ô uế. Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ
được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Dân không được dùng gỗ chò
làm nhà ở. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò,
các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.
Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày
cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa
phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và
lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau
khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay
lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ
tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng,
Khấn, Vái, và Lạy.
II. Định Nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
a. Cúng
Khi có giỗ Tết, gia-chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ-bàn,
chén bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp
đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu-kính, biết
ơn, và cầu phước-lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa
bình-thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy,và vái.
b. Khấn
Khấn là lời cầu-khẩn lầm-rầm trong miệng khi cúng, tức là lời
nói nhỏ liên-quan đến các chi-tiết về ngày tháng năm, nơi-chốn, mục-đích
buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và
lời hứa.
Sau khi khấn, người ta thường vái vì
vái được coi là lời chào kính-cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm khấn
vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.” (câu 95-96)
c. Vái
Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở
ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai
bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom
lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc
cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4,
hay 5 vái (xem phần sau).
d. Lạy
Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả
tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của
mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn
trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có
mang ý-nghĩa khác nhau.
– Thế Lạy Của Đàn Ông
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp
hai tay trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn
tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay
ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống
đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất
người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc
bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang
quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng
với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp
cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái
ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái
trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều
cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng
dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp
lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất
khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường
chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi ngã. Khi
chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía trước
được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất
khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và
đồng-thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn
tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ
được như thế là nhờ các Thầy đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng Phật.
Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen
mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.
Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân
vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân
trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và
kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai
bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở
thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn
tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế
đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên
đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo
thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy
dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất
thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy
theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay
chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình
xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu
rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên.
Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp
mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng,
tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển-chuyển
tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất-tiện là
khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao-niên còn
áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần
đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là
truyền-thống rất có ý-nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành-khẩn vừa
trang-nghiêm trong lúc cúng tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục tốt đẹp này,
các bạn nam nữ thanh-niên phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế lạy,
nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn
được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.
Số lần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây
chúng tôi xin trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục
đặc-biệt của Việt Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng,
người Tàu chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.
Hai lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô
dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người
quá-cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên
lạy 2 lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường
vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào
kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác. Nhưng trong trường- hợp người
quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn, các người đến phúng- điếu,
nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc cao-niên, hay những người
vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá-cố, thì
chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài đã được hạ-huyệt, tức là
sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm-dương, khi chưa chôn,
người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này
tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự sống.
Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật,
Pháp, và Tăng (xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã
được phổ biến trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là
giác, tức là giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh,
tức là điều chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là
trong-sạch, thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải
theo. Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ
Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường-hợp cúng Phật, khi ta mặc
đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái
ba vái trước bàn thờ Phật.
Bốn lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần.
Bốn lạy tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương,
tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái
Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi
âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương
vào đó để làm chỗ trú-ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp-dụng thế lạy.
d.Ý Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho
ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung
tức là hành-thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy
tượng-trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà
vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ
thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
Phong tục có được là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận,
nhiều khi không giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết
làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào
cũng vậy, chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ
gia tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập
bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn
tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là
một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy
trì.
Nguyên ngày trước, “Lễ giỗ” gọi là “Lễ
chính kỵ”; chiều hôm trước lễ chính kỵ có “lễ tiên thường” (nghĩa là nếm
trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm
trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ
tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế hoặc
vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần
nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng
đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ
tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải
cúng buổi sáng.
Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng,
tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời
dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) tức là
kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà, cha mẹ. Từ “Cao” trở lên gọi chung
là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ
tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net)