Vòng Tràng Sinh có một khúc mắc ấy là sao Mộ (hay giai đoạn phát
triển Mộ) chỉ có theo chiều thuận thì Mộ mới đóng ở Thìn Tuất Sửu Mùi là
cung Mộ khố mà thôi, theo chiều nghịch sao Mộ không đóng ở bốn cung đó. Vậy
thì Thìn Tuất Sửu Mùi vốn vẫn là tứ Mộ hay còn có sao Mộ nữa. Nếu phải
có sao Mộ vào Thìn Tuất Sửu Mùi thì chuyện thuận nghịch của vòng Tràng
Sinh không tồn tại nữa và vòng này chỉ có một chiều thuận mà thôi cho
nam hay nữ, dương hay âm. Câu phú: Phu cung đóng ở miền tứ Mộ. Gia Hồng Loan ấy số khóc chồng. Rõ ràng câu phú trên chỉ vào
chỗ đứng Thìn Tuất Sửu Mùi của sao Hồng Loan vì ở Thìn Tuất Sửu Mùi
Hồng Loan thường gặp Cô Thần Quả Tú. Cô Thần Quả Tú không bao giờ đứng ở
các cung Tí Ngọ Mão Dậu. Trong khi Tràng Sinh đi nghịch thì Mộ lại ở Tí
Ngọ Mão Dậu. Chỉ duy có Mã gặp Tràng Sinh thì vất vả ngược xuôi vì Thiên Mã
chủ “động” nên mới có câu phú:Mã ngộ Tràng Sinh chung thân bôn tẩu. Hoặc
Mã hoặc Tràng Sinh vừa đủ, cả Mã lẫn Tràng sinh là thái quá. Như
vậy thì Tràng Sinh phải có chiều nghịch chiều thuận chứ không thể chỉ
một chiều thuận, cứ theo chiều thuận không thôi thì Đào Hoa luôn luôn
gặp Mộc Dục đàn bà con gái thành mất nết hết còn gì. Mộc Dục vào Thìn
Tuất Sửu Mùi chất đào hoa của nó bị triệt tiêu. Mộc Dục không phải là chính đào hoa chỉ coi như thiên đào hoa thôi, bởi vậy chất đào hoa của nó có phần bất lương, bất chính. Mộc
Dục gặp Lộc Tồn Hóa Lộc thì chất đào hoa biến thành tài lộc khả dĩ nhờ
người khác phái mà phấn phát. Tỉ dụ nam mạng Mộc Dục gặp Lộc đi buôn bán
quần áo phấn son hoặc làm ca kịch sĩ… rất hợp. Mộc
Dục gặp Đào Hoa, Thiên Riêu, Thiên Hình, Hồng Loan, Thiên Hỉ thì chỉ
phát triển chất đào hoa mà thôi. Mộc Dục gặp Xương Khúc Hóa Kị vì tình
mà hết nghiệp. Mộc Dục gặp Tham Lang Hóa Kị trăng hoa chim vợ cướp
chồng. Mộc Dục đứng với Long Trì cẩn thận tai nạn sông nước. Mộc Dục
đứng ở Mệnh cung vô chính diệu thì học hành dở dang. Mộc Dục gặp Đào
Riêu Hoa Cái là người đam mê sắc dục. LUẬN VỀ QUAN ĐỚI: Quan
Đới là đệ tam giai đoạn bắt đầu trưởng thành, quan đới nghĩa đen là mũ
mão thắt lưng. Khi luận đoán thì Quan Đới là sự trưởng thành, đứng cung
nào đều mang tính chất chín chắn, phát triển. Quan Đới vào Quan
Lộc tượng trưng cho hy vọng phát triển sự nghiệp, vào cung Phúc Đức là
đầu óc tư tưởng đã thành thục. Quan Đới đứng với các sao Không và Hoa
Cái là có khuynh hướng triết lý. Quan Đới vào các cung Phụ Mẫu,
Huynh Đệ, Nô Bộc trợ giúp cho các sao tốt đã sẵn có ở các cung này. Quan
Đới gặp Long Trì Phượng Các, Thiên Tài, Văn Xương, Văn Khúc thì gia
tăng thông minh và tài nghệ. Quan Đới đứng với Thái Tuế, Địa Kiếp
lại thành ra gia nhân nhà quyền thế. Quan Đới gặpnhiều sát bại tinh
biến thành cái tròng lọng, hay một sợi dây câu thúc vì công danh mà khổ. LUẬN VỀ LÂM QUAN
: Lâm Quan là giai đoạn thứ tư, khi đã trưởng thành rồi tất phải ra đời
phấn đấu, xã hội xưa việc xuất sĩ được gọi là lâm quan (ra làm quan)
phục vụ. Lâm Quan gặp Đào Hoa thì ưa phục vụ người khác phái, công việc
liên quan với người khác phái đưa đến phát đạt. Thất Sát Phá Quân
đứng với Lâm Quan tạo thành tâm lý thích làm nhiều công chuyện khác,
lắm nghề. Lâm Quan gặp Thiên Cơ Thiên Đồng thì công việc thường bị thay
đổi. Lâm Quan gặp được Khôi Việt là người có chức vụ tương đối cao. Lâm
Quan có tính hay khoe khoang và ăn nói kiêu kỳ. Lâm Quan gặp các hung
sát tinh dễ rắc rối phiền lụy vì công việc chức vụ. LUẬN VỀ ĐẾ VƯỢNG:
Đế Vượng là giai đoạn cực thịnh của sinh mệnh lực, nó đã lên đến tối
cao điểm và khi đến đây rồi thì chỉ còn một nước tiếp theo là suy thoái.
Khỏe nhất mà cũng nhiều nguy cơ hơn hết. Đế Vượng vào cung Quan
Lộc tốt nhất, nếu có thêm Tả Hữu càng hay. Đế Vượng đứng với Tham Lang
Hỏa Tinh, Linh Tinh bạo phát, bạo tàn. Tử Vi có Đế Vượng tăng hẳn sự tôn
quí.Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm cũng vậy, với điều kiện Thái Dương
đắc địa cho người sinh ngày, Thái Âm đắc địa cho người sinh đêm và Thiên
Phủ miếu vượng có Đế Vượng khả năng lãnh đạo tăng lên. LUẬN VỀ SUY:
Đây là giai đoạn của sinh mệnh lực chuyển từ vượng đến nhược. Nó vào
cung Phụ Mẫu khiến cho quan hệ thân thiết với cha mẹ thành nhạt xa. Vào
Mệnh Thân cung thì chí phấn đấu không bền. Vào Tài Bạch cung thiếu lòng
tự tin. Vào Quan Lộc không hăng hái với việc lập công danh, an phận. Suy
lưu niên, lưu nguyệt tác dụng mạnh hơn Suy cố định trên lá số. Suy đóng
cung Phúc Đức dòng họ phân ly sơ tán. Suy mà đóng vào Mệnh Thân
cũng làm cho con người cùn nhụt chí phấn đấu làm việc đầu voi đuôi
chuột. Vào cung Tài Bạch thì cái tự tín tâm kiếm tiền thiếu mạnh mẽ
không thể kinh doanh buôn bán. Vào cung Quan Lộc cung chuyện công danh
quyền chức dễ bị đẩy qua thế yếu. LUẬN VỀ BỆNH:
Bệnh là cung giai đại biểu một giai đoạn phát triển trong quá trình
nhân sinh. Vượng rồi suy, suy rồi bệnh, nhưng không phải bệnh mang cái
nghĩa là đã suy đến cùng cực. Bệnh vào Mệnh cung không thể bảo
rằng người ấy mắc bệnh, sẵn sàng mang bệnh. Nó chỉ nói lên cái lực sinh
mệnh không vững vàng. Vào Phụ Mẫu, Huynh Đệ thì duyên phận với người
thân bất túc. Vào Tài Bạch ý chí tìm tiền bạc nhược, thiếu đầu óc thực
tế, nếu gặp Hóa Kị cùng các sát tinh khác thì do bệnh tật mà hao tốn
tiền tài. Vào Quan Lộc cung ở trường hợp có cả Thiên Lương thì nên theo
đuổi nghề thuốc (thầy lang, y tá), vào những ngành cần một cá tính quyết
liệt không mấy hay. Sao Bệnh cố định ảnh hưởng không nặng bằng ảnh hưởng vào vận hạn lưu niên. Bệnh đóng cung Tật Ách sức khỏe kém. Tử vào Phụ Mẫu, Huynh Đệ thân thuộc sơ ly, nếu nó gặp Kị Hình ở cung này thì không được cả sự che chở nuôi dưỡng của bố mẹ. Tử
đứng cung Phúc Đức, con người tâm ý tiêu cực, không bao giờ thành chủ
động, an phận, tùy thuộc. Tử đóng cung Tài Bạch cái lòng ham kiếm tiền
nguội lạnh. Có khuynh hướng dành dụm cất dấu hơn là xoay sở phát triển. Tử
vào Mệnh cung tính thâm trầm kín đáo, pha ít nhiều bi quan, dễ buồn.
Cũng như các sao khác thuộc vòng Tràng Sinh, Tử ảnh hưởng vào vận hạn
lưu niên lưu nguyệt lưu nhật mạnh hơn. LUẬN VỀ MỘ: Ba sao trọng yếu của vòng Tràng Sinh là: Tràng Sinh, Đế Vượng và Mộ gọi
tắt bằng Sinh - Vượng - Mộ. Sinh là sinh ra và lớn lên, Vượng là cường
tráng thành thục, Mộ là tiềm tàng. Vậy thì không có nghĩa là chôn
đi sinh mệnh hoàn toàn đoạn tuyệt. Mệnh Thân cung không nên đứng vào
chỗ có sao Mộ, sự khai triển thành công sẽ khó khăn vất vả hơn. Mộ
vào cung Tài Bạch lại hay vì dễ tích súc của cải hơn, dù số nghèo cũng
không đến nỗi khổ, số giàu thì bền. Hóa Lộc đóng cung Mộ tiền bạc thiếu
linh động phát triển. Đến đây lại gặp phải nghi vấn khi các lý thuyết gia nêu ra nguyên tắc: Lộc Tồn không bao giờ đóng vào cung Mộ Nếu
Tràng Sinh đi theo chiều nghịch đương nhiên Mộ vào cung Tí Ngọ Mão Dậu.
Lộc Tồn có mặt ở đây đối với tuổi Ất, Đinh, Kỷ, Tân và Quí. Như vậy Mộ
cung Thìn Tuất Sửu Mùi không liên quan đến các sao Mộ của vòng Tràng
Sinh? Áp dụng nguyên tắc này thì vòng Tràng Sinh chỉ có một chiều
đi thuận mà thôi. Nhưng mà rành rành Tử Vi Đẩu Số lại ghi vòng Tràng
Sinh thuận và nghịch hai chiều tùy theo Dương Nữ hay Âm Nam hoặc tùy
theo nữ mạng nam mạng. Qua kinh nghiệm thì tất cả những cung Mệnh
nào đóng vào tứ Mộ cuộc đấu tranh cho sự thành đạt thường khó khăn vất
vả hơn như Tử Phá, Tham Vũ, Thiên Phủ, Thiên Tướng… LUẬN VỀ TUYỆT:
Tuyệt là giai đoạn xấu nhất. Tử với Mộ còn có sinh nhưng Tuyệt là tuyệt
diệt. Cho nên Tuyệt đóng Phụ Mẫu, Huynh Đệ hay Phu Thê kể là tuyệt đối
xấu. Tuy nhiên đây chỉ là tạp diệu thôi, còn cần phối hợp với các sao
khác ở cung này để quyết đoán, không chỉ căn cứ vào một sao Tuyệt. Tuyệt
vào cung Tật Ách có tốt như Triệt Tuần không? Căn cứ vào nghĩa tuyệt
của nó? Không và trái lại. Tuyệt vào Quan Lộc và Tài Bạch là cho ý chí
kém cỏi, ưa nản, thiếu hăng hái chiến đấu. Các sách Trung Quốc
không thấy nói về cách Tuyệt Hỏa tức Tuyệt gặp Hỏa Tinh. Nhưng Tử Vi
Việt có Tuyệt gặp Hỏa Tinh khi Mệnh cung đóng Hợi thì lại là con người
quật khởi hiên ngang. Vận có chúng thì dễ xoay chuyển thời cơ, như con
ngựa Đích Lưu của Lưu Bị nhảy qua Đàn Khê, sắp cùng khốn mà lại vượt
lên. Tuyệt Hỏa đi cùng Thất Sát thành ra người tàn nhẫn, phải chăng là vì tâm ý bị dồn nén đến cùng độ mà phản công mạnh trở lại? Cung Tỵ Sát ấy là đẹp quá Nếu chẳng may Tuyệt Hỏa cùng ngồi Ấy phường tàn nhẫn đó thôi Ấy phường khát máu tanh hôi sá gì LUẬN VỀ THAI:
Sau khi tuyệt diệt thì đến một sinh mệnh khác khai mở. Nhưng Thai đại
biểu cho yếu nhược, non nớt chưa có một sức mạnh nào cả. Vậy thì Thai
đóng Mệnh cung thì ý chí lực còn non kém, nhưng đồng thời nó cũng đại
biểu một hy vọng. Theo sách vở Trung Quốc, Thai đứng với Nhật
Nguyệt Thiên Lương ở Tài Bạch, Quan Lộc chỉ vào một kế hoạch lâu dài để
phát triển cơ sự nghiệp? Tử Vi Việt nói về sao này nhiều hơn. Thai
đóng cung Tử Tức gặp thêm nhiều quí tinh thì con đông, dễ đẻ dễ nuôi,
nếu gặp nhiều sát tinh thì ngược lại. Thai đóng Mệnh mà gặp Khôi Việt
Hồng Loan là bậc văn chương? Thai đi với Kình Đà Linh Hỏa thì lại
ra ngu dốt. Cung Phu Thê có Đào Thai vợ chồng dễ đưa đến tình ngoại
hôn. Số nữ mà Mệnh cung hay Phu cung có Thai Đào tiền dâm hậu thú. Đại
tiểu hạn Thanh Long Thiên Hỉ dễ đạt ước nguyện về con cái. Có những câu phú về sao Thai như sau: - Thai phùng Sát Dục tu phòng sản phụ (Số nữ ở Tật Ách hay Tử Tức có Thai gặp Kiếp Sát Mộc Dục sanh đẻ khó khăn) (số nữ có Thai Đào Kiếp Sát có gì không ổn về bộ phận sinh đẻ) Tất là con cầu tự mới sanh Nam nhân ắt có con dòng thiếp thê (Ở cung Tử Tức) Đào Thai những giống yêu tinh muộn phiền Vợ chồng mừng đã đến ngày nở hoa. LUẬN VỀ DƯỠNG:
Dưỡng là nuôi, kết thai rồi thì phải nuôi dưỡng nên Dưỡng với Mộ bao
giờ cũng ở hai cung đối chiếu nhau trên lá số. Dưỡng cũng như Mộ đều
mang ý nghĩa tiềm tàng ẩn phục. Nhưng Mộ thì ẩn tàng khi đã vào thời kỳ
suy tàn còn Dưỡng thì ẩn tàng của giai đoạn chưa hoàn toàn thành thục mà
dịch kinh gọi bằng “tiềm long vật dụng” (rồng ẩn trong ao). Dưỡng rất
hợp cho thời kỳ sửa soạn để phát động. Dưỡng vào cung Tật Ách là bệnh đã xâm nhập tiềm tàng. Dưỡng vào Quan Lộc làm việc gì cũng cần suy tính có kế hoạch chu đáo không thể cứ làm bừa. Đối
với Tử Vi Việt thì Dưỡng đại biểu tính chất cẩn thận và hợp với nghề
chăn nuôi. Dưỡng vào cung tử tức thì nuôi con người hoặc con riêng.
Dưỡng vào cung Huynh Đệ thì có anh em nuôi. Nuôi con nghĩa tử giúp mình yên vui Khốc Hư ngộ Dưỡng không lành. Tướng Binh xung phá hẳn đành hoang thai (Nói về những sao trên đóng vào cung Tử Tức). Nguồn: Sưu tầm
Dịch từ câu: “Sở ai giả, Hồng Loan tứ Mộ liệt Phu quân chi vị” sẽ phải
luận đoán thế nào? Hồng Loan ở Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc đứng với sao Mộ?
Muốn gỡ nút rối này thì chỉ có một con đường chấp nhận vòng Tràng Sinh
đi theo một chiều như vòng Thái Tuế.
- Nữ mệnh Thai Đào phùng Kiếp gián đoạn tử cung
- Thai tinh ngộ Thái Âm cung Tử
- Thai phùng Đào Hỉ vận này
Tam Không ngộ Dưỡng đinh ninh
Vòng Tràng Sinh là quá trình sinh ra, lớn lên, già nua và tuyệt diệt
của một hành thì từng “sao” không có ngũ hành sở thuộc nữa. Có một vài
sách Tử Vi Việt ghi: Tràng Sinh thuộc Thủy, Mộc Dục thuộc Thủy, Quan Đới
thuộc Kim là sai đến như Tử mà thuộc Thủy nữa thì là cả một chuyện khôi
hài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net)