Phi tinh và Loan đầu (loan đầu đây là nói về hình thể bên ngoài,
không liên quan tới phái Loan đầu) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau
trong việc quyết định cát, hung của 1 căn nhà, còn thiết kế bên trong
cũng có tác dụng nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ thuộc mà thôi. Cũng giống
như 1 căn nhà tuy phía trước có biển lớn, phía sau có núi cao, 2 bên
Long, Hổ hùng tráng bảo vệ. Nhưng nếu phi tinh lại gặp phải cách vượng
khí của Sơn tinh tới phía trước, Vượng khí của Hướng tinh tới phía sau
thì vẫn bị cách “Thượng Sơn, Hạ Thuỷ” mà gia nghiệp suy bại thê thảm.
Nếu những căn nhà đã bị như thế thì dù thiết kế bên trong có hoàn mỹ tới
đâu cũng không thể làm thay đổi cục diện xấu của căn nhà. Ngược lại, 1
nhà tuy phía trước có núi cao, còn phía sau có biển lớn, tuy đối với
phái Loan đầu là cục diện thất bại, nhưng nếu có vượng khí của Sơn tinh
tới phía trước, vượng khí của hướng tinh tới phía sau thì vẫn có thể
phát phúc 1 thời. Cho nên mới nói Loan đầu phụ thuộc vào Phi tinh, Phi
tinh phụ thuộc vào Loan đầu là vậy. Về sự tương quan giữa vận-sơn-hướng tinh trong
cùng 1 cung thì cũng đã có nhiều sách vở đề cập tới, thậm chí còn chia
ra thành tỷ lệ phần trăm giữa 3 sao này để cứu xét. Nhưng có lẽ các tác
giả đó 1 là không muốn tiết lộ những gì họ biết, 2 là vì không hiểu rõ
tính chất vượng, suy hay “thất, đắc” của những phi tinh nên mới bày vẽ
đủ cách tính toán mà thôi. Nhưng thực chất là vì toạ và hướng là 2
phương vị quan trọng quyết định vận khí của 1 căn nhà, nên Sơn tinh và
Hướng tinh mới có tầm quan trọng đặc biệt, và cũng vì vậy mà khi lấy
trạch vận cho 1 căn nhà thì người ta mới lấy những Vận tinh tới TOẠ VÀ
HƯỚNG nhập trung cung xoay chuyển để xác định những phương vị sinh,
vượng, suy, tử của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Chứ không ai lấy hết
Vận tinh chung quanh nhà đem nhập trung cung xoay chuyển làm gì, dù là
phía trước của căn nhà đó có thuỷ hoặc cửa ra vào hay không? Hoặc phía
sau có núi hoặc nhà cao che chắn hay không? Điều này cho thấy 2 phương
toạ và hướng có tác động quyết định lên vận khí của 1 căn nhà, và do đó,
sức mạnh của Sơn và Hướng tinh mới có tầm quan trong đặc biệt hơn Vận
tinh. Riêng Vận tinh chỉ là vị trí cố định của phi tinh trong từng Vận,
nên tác dụng rất yếu, chỉ có khả năng phối hợp với Sơn và (hoặc) Hướng
tinh để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi, chứ không thể có khả năng chi
phối hay giảm thiểu, hoặc làm thay đổi tính chất của Sơn, Hướng tinh
cùng vị trí với nó. Còn sự tương tác giữa Sơn tinh và Hướng tinh, trên
thực tế phải tuỳ thuộc vào sự “đắc cách” hay “thất cách” của chúng mới
có thể biết được sao nào nắm quyền chủ chốt tại khu vực đó. Muốn biềt
được điều này thì phải nắm vững những nguyên lý về “Thu Sơn, Xuất Sát”
mới không bị lầm lẫn hoặc rối trí trong việc xét đoán những ảnh hưởng
của phi tinh trong cùng 1 cung. Biết rằng khí sinh, vượng của Sơn tinh
cần phải đóng trên những chỗ cao. Nếu được như thế thì tức là Sơn tinh
đã đắc cách, uy lực của nó đương nhiên được phát huy tới mức tối đa, cho
nên chẳng những nó có đủ sức để chi phối cả Vận tinh và Hướng tinh tại
đó, mà nếu gặp trường hợp Hướng tinh tại đây lại là khí suy, tử thì mọi
hung khí của Hướng tinh đều được nó hoá giải. Cho nên đây chính là
trường hợp “dùng Sơn thần xuất sát của Thuỷ thần”, hay còn được gọi tắt
là “Xuất Sát”. Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc
các công việc về văn. Nếu suy thì dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc
chìm đắm trong tửu sắc Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ
vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền,
người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá
quyền quý, có lợi cho người thuộc mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều
phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo tù tội
hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép
phải dời đi nơi khác ở Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong
khoa cử, quan vận hanh thông thuận lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về
văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà
không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh
ra quan hệ nam nữ bất chính . Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật
thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi, hoặc con
cái chết yểu Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang
quý (tức có địa vị chức tước). Nếu suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các
chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức ăn,
con thứ chết yểu Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu
sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp
văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về lạnh,
dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải .
Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện
tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi
phải mang thương tật Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa
chết đuối, xuất hiện người có tài về viết lách . Nếu suy thì vợ mắc
chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn
về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng
bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp 2. Nhị Hắc Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia
cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông, mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy
thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm chủ gia
đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có
quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí
lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra nhiều
chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích
lũy do làm việc bất chính, nhưng con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn
ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về đường
tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là “đâu ngưu sát” nên vợ chồng
thường bất hòa, chống đối nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên
ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình
hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam
giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người trong nhà
dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn
tẻ vắng lặng, ra ngoài thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân,
hoặc mắc bệnh thương hàn Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài
vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ
bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà thường
mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái
thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh, nhiều khả năng hành nghề y cứu đời,
hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già lắm
bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh
chấp, thường gặp việc tai tiếng thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau
dầu hay điên loạn Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền
của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và
con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có hỏa
tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ
nữ quấy rầy hoặc vì tranh chấp thị phi mà bị đâm chém Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ, đàn bà thường bỏ nhà đi tu Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề,
đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ
về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn xuất
hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng
bạch đới cấp tính . Khi âm quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn
thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa 3. Tam Bích Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý,
đinh tài đều đại phát, thi cử đổ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng
lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì bấtt
hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận
lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tai chân. Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng
vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối
nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với
cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa,
hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều
vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia
lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra
trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh
nhau với người mà bị tù tội. Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh
nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì
trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị
thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì
tình hoặc bị rắn cắn Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền
quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp,
rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân. Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả
nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên.
Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân
tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra
tranh chấp. Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có
chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu suy thì nó là “Xuyên Tâm Sát”, thường
mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu
phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết.
Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá
hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận,
các tai họa thường là con trưởng chịu Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất,
lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị
thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh
giành gia sản mà gây ra kiện tụng Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu
thông minh, văng tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy
thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau
mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn. 4. Tứ Lục Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về
văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường
đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh
trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên
ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu. Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm
quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng
và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà
thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng
nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự
nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia
làm ni. Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia
đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang.
Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường có ý làm
tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị
ứng hoặc có tật ở tay chân Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con
cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn
chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc
trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể.
Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự
nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang,
cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất
gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại. Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến,
được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì
cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người
trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở
tay. Tứ Lục sóng đôi là tượng “Dịch Mã”, nên người nhà dễ phảI tha
hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày. Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo
hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm,
con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra
ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp
sát đào hoa Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải
chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm
ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không
giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn. Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được
tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị
đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian dâm mà gia
sản lụn bại 5. Ngũ Hoàng Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con
giữa không phát. Nếu suy thì con giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm
nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn
thường bị các bệnh về tai, hắc lào. Người nhà bệnh hoạn luôn. Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ
nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ
yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì cha
bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ. Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng
được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy thì thường mắc các chứng bệnh về gan,
tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản nghịch,
trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm. Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự
nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ
hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm đạm
buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại. Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp
phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch
đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người. Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con
cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân
mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất sinh, ra
ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị
tổn thất. Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp
hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường
xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn
tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng,
miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa rìu. Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông,
con cái tốt lành gặp nhiều thuận lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường
đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm. Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận
tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần, người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu
hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng bạch đới
cấp tính. 6. Lục Bạch Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh
thông, tiền của dồi dào, con cái học hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc
tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp tai
nạn sông nước. Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng
bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên, xuất hiện người hành nghề y cứu đời.
Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng bất
hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày,
đường ruột. Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh
thông, quyền uy hơn người. Nếu suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương,
cha con bất hòa, có tang tóc. Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương
trường, nhất là lãnh vực buôn báng đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu
suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng nổi,
phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt. Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt,
nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao
tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là bệnh đau
đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy. Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông,
quyền chức cao. Nếu suy thì gặp nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi
phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn chạy,
của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường. Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có
quyền lớn trong tay, tài lộc thuận lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao
kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp, hoặc
vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh
đau đầu, đau miệng, đau họng. Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công
danh và bổng lộc đều có, con cháu được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh.
Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần nhiều mắc bệnh
đau đầu, đau xương. Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh
tài đều vượng, chủ nhân quyền cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà
xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người nhà sinh
con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị
bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch
tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương. 7. Thất Xích a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái
đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc,
tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì
có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết,
thương tật, hay bị tù đày mà phá sản. Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm
nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý . Nếu gặp được số Nhị
Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng
vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa,
người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị. Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền
cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn
phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô
bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát
dễ gặp binh đao, trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia
đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị
thương tật hoặc quan tai. Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan
lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân,
gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng
dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu. Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải
đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên
dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa. Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có.
Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị
thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau
đầu, viêm nhọt. Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được
quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp
hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên
dễ bị quan tai. Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên
tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu
khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi
nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật. Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia
đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có
Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng
mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung
sát càn nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên
ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai. 8. Bát Bạch Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học
hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu
suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất hòa,
bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối. Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì
dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên
ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất gia
làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người. Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn)
dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát
quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức
quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh
gan, dạ dày. Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng
vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia
đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở chốn
núi rừng. Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh
thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ
mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn. Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều
quyền thế, phú quý và phúc đức tăng cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang
nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương. Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài
lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận, con cái an khang. Nếu suy thì tài sản
dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất. Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành;
phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng
vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc bệnh
nhức xương đau vai. Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có
không ai sánh kịp, có địa vị trong triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm
tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn. 9. Cửu Tử
Ngược lại, khí sinh, vượng của Hướng tinh cần phải đóng tại những nơi có
Thuỷ như sông, hồ, ao, biển, hoặc những nơi có cửa nẻo ra, vào nhà. Nếu
được như thế là Hướng tinh đã “đắc cách”, nên uy lực của nó đủ để khống
chế cả Vận tinh lẫn Sơn tinh tại đây. Nếu trong trường hợp Sơn tinh là
khí suy, tử thì sẽ được Hướng tinh hoá giải, làm mất hết hung khí, nên
đây là trường hợp “dùng Thuỷ thần để thu sát của Sơn thần”, hay còn được
gọi tắt là “Thu Sơn”.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí sinh,
vượng: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh nắm quyền, chi
phối Vận tinh và Hướng tinh. Nếu khu vực này có Thuỷ thì Hướng tinh nắm
quyền, chi phối Vận tinh và Sơn tinh. Nếu khu vực này không có núi, cũng
không có Thuỷ, tức là cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều không có hiệu lực.
Đây là cục diện ngang hoà, không có sao nào chi phối nhau cả, và cũng
không có ảnh hưởng gì tới vận khí căn nhà.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí suy, tử:
nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đó đắc thế, nên nhà sẽ
bị tai hoạ do đối tượng ứng với Sơn tinh đó gây ra. Lấy thí dụ như nhà
trong vận 8, nơi phía ĐÔNG có Sơn tinh 7, hướng tinh 3. Nếu khu vực đó
có núi hay nhà cao thì nhà sẽ bị tai hoạ do Sơn tinh số 7 này mang tới.
Vì số 7 thất vận chủ kẻ tiểu nhân hay trộm cướp, nên nhà này dễ bị kẻ
tiểu nhân hãm hại, hay trộm cuớp đến phá nhà. Trong trường hợp này, Sơn
tinh sẽ khống chế Vận tinh và Hướng tinh. Còn Hướng tinh thất vận lại
nằm trên cao nên vô lực. Ngược lại, nếu khu vực đó không có núi, nhưng
lại có Thuỷ thì nhà sẽ bị tai hoạ hay thất tán tiền bạc do Hướng tinh đó
đem tới. Trong trường hợp này, Hướng tinh đã khống chế cả Vận tinh và
Sơn tinh. Còn Sơn tinh vừa là khí suy, tử, vừa đóng tại nơi thấp, trũng
nên vô lực.
Cho nên sự tương tác giữa những Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung
là tuỳ thuộc vào sự thất, đắc của chúng mà thôi. Nói “thất, đắc” không
phải là nói thất vận hay đắc vận, mà là ám chỉ chúng có đóng tại những
nơi phù hợp hay không mà thôi. Sơn tinh nếu đóng trên núi cao là “đắc
cách”, sẽ có đủ uy lực sai khiến Thuỷ thần (tức Hướng tinh). Hướng tinh
nếu đóng tại những nơi có Thuỷ là “đắc cách”, sẽ có đủ uy lực mà điều
động Sơn tinh. Nhưng cũng phải phân ra nếu khí sinh, vượng của Sơn,
Hướng tinh mà “đắc cách” thì sẽ chủ đại phúc lộc, còn nếu khí suy, tử
của Sơn, Hướng tinh mà “đắc cách” thì sẽ chủ đại hoạ. Còn nếu khí sinh,
vượng của Sơn, Hướng tinh mà “thất cách”, tức là Sơn tinh gặp Thuỷ,
Hướng tinh gặp núi thì đã thuộc vào cách “Thượng Sơn, Hạ Thuỷ” rồi. Cho
nên khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh cần phải “đắc cách” , còn khí
suy, tử thì cần phải “thất cách”. Có như thế thì mới bảo đảm phúc lộc
lâu dài và tránh được mọi tai hoạ.
Còn vấn đề dùng Ngũ hành sinh-khắc để luận ảnh hưởng của các sao, cũng
như sự phối hợp giữa chúng mà tạo thành những số “hợp thập”, số Tiên
thiên hay Hậu thiên, Phản ngâm, Phục ngâm… chỉ là phụ và sau khi đã biết
được tình trạng “thất, đắc” của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi.
Thế nào là vượng và thế nào là suy ?
Vượng là khi được đắc cách (dĩ nhiên phải là sao vượng, sinh hoặc
tiến khí trong vận đó) như sơn vượng thì có núi cao. Nhà cao, cây
cao….Hoặc hướng vượng thì có thủy, trống thoáng hoặc có đường đi.
Suy là khi bị thất cách. Như sao sơn vượng, sinh hoặc tiến khí mà
lại gặp thủy. Hay sao hướng vượng, sinh hoặc tiến khí lại gặp sơn. Sao
sơn là tử khí mà lại gặp núi hoặc sao hướng là tử khí mà lại gặp thủy.
Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nhưng có Hướng tinh số 2 đắc thuỷ của
hồ tắm lớn. Đây là trường hợp tử khí đắc cách, nên trong nhà này vừa bị
hao tài, vừa bị bệnh tật liên miên, lại còn xuất hiện quả phụ. Cho nên
đàn ông trong nhà đó dễ bị vắn số. Đó là chưa kể nếu nơi đó lại có sơn
tinh 3, tạo thành thế “ĐẤU NGƯU SÁT”, nên gia đình sẽ bị mắc khẩu thiệt,
quan tụng liên miên. Hoặc nếu nơi đó có sơn tinh hay vận tinh 7, kết
hợp với hướng tinh 2 tạo thành cặp 2-7 Hoả tiên thiên thì nhà này dễ bị
xung đột hoặc trong nhà có người mắc bệnh đau tim. Vào những năm có niên
tinh 9, 7, 2 chiếu tới khu vực này thì bệnh tim càng nặng, có thể chết
người. Nếu khu vực này mà lại nằm tại phía ĐÔNG hoặc ĐÔNG NAM thì vào
những năm có niên tinh 4, 3 chiếu tới thì còn gặp hoả hoạn mà sản nghiệp
tiêu tan nữa. Cho nên nếu khí suy tử mà đắc cách thì ngoài vấn đề phá
tài, tổn đinh thì còn bị những tai hoạ, bệnh tật khác nữa, chứ không
phải chỉ là làm ăn lụn bại (trường hợp Hướng tinh “Thượng Sơn”) hoặc
nhân số giảm thiểu (trường hợp Sơn tinh “Hạ thuỷ”) như các trường hợp
vượng tinh thất cách, tức là mức độ tai hoạ còn nguy hiểm và trầm trọng
hơn.
Vấn đề khảo sát các sao Vận-Sơn-Hướng (nhất là Sơn và Hướng) thì
trước hết cần phải xét đến thời vận, xem chúng là sinh, vượng hay suy,
tử. Sau đó mới xét tới hình thế Loan đầu xem chúng có đắc cách hay
không ?
Như Sơn tinh vượng cần gặp núi hay nhà cao, Hướng tinh vượng cần
có thuỷ hoặc cửa ra vào… Nếu chúng được như vậy thì dù ngũ hành có bị
xung khắc cũng vẫn không có tai hoạ gì cả. Chỉ khi chúng đều là khí suy,
tử, hoặc không đắc cách thì mới xét đến ngũ hành sinh, khắc để đoán
biết hung hoạ mà thôi. Lấy thí dụ :cung KHẢM có các sao 7-8-3 (theo thứ
tự Sơn-Vận-Hướng). Nếu là trong vận 7, sơn tinh 7 là vượng khí, nên nếu
khu vực này có nhà cao thì chủ vượng nhân đinh, lại hoá sát của Hướng
tinh số 3, chứ không có vấn đề khắc chế gì cả. Nhưng qua vận 8, sơn tinh
7 biến thành suy khí, khắc chế Hướng tinh 3, nên nhà này dễ bị trộm
cướp hay tai hoạ hình thương, hay có bệnh về thần kinh… Chỉ có khi xét
tới niên, nguyệt, nhật thời tinh thì mới dùng đến nguyên lý ngũ hành
sinh, khắc làm chủ yếu. Còn giữa vận-sơn-hướng khi xét đến sự sinh, khắc
thì chủ yếu là giữa Hướng tinh và Sơn tinh, còn vận tinh chỉ có thể phụ
hoạ thêm vào cái sinh hoặc khắc giữa 2 sao đó mà thôi.
1. Nhất Bạch
Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu
trắng; mùa thu tiến, mùa đông vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ
gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền bạc sẽ vào
nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà
chôn vợ . Nhất Bạch lại là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan
Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ đại, danh lừng bốn
bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không
thọ, cuộc đời trôi nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư,
hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp.
Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa
ruộng vườn thên than, nhân khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp .
Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểu,
keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh
tật liên miên
Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu
vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con
cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc
hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành
trộm cướp
Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử
đổ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu
suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàng ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại
phải lang thang phiêu bạt
Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài
đinh đại phát . Nếu suy thì bất kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu .
Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái Tuế tới thì
tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau,
nặng thì hao vài người . Cuộc này nên tránh không nên phạm
Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động
bốn phương, làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giàu có,
nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh đau;
Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ.
Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ
quyền, đinh tài đều vượng . Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp
hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì hỏa
tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc.
Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu
càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn. Nếu
sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các biểu hiện như:
b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể
c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công
d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch
e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp
f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng
Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý
dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn
thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch.
Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột
ngột, con cháu dòng giữa được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai,
hoặc tai họa ở chốn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net)