
 
                         Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một 
điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương 
của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn 
vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra 
tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù 
Chấn để yểm. La Quý nối chỗ đứt long mạch Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao 
Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở 
nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan. Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song
 Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của 
thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương
 diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, 
nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên 
đoán được tương lai. Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 
936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, 
Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng 
đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông 
Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại
 những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa”. “Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa 
Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo 
bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long 
mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò 
dựng chính pháp của chư Phật”. Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là 
Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa 
nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên
 ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch 
sử Việt Nam… Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa. Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên 
sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học
 khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung 
Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến 
nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian 
mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao. Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc
 đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin 
nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên
 dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ 
nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt 
có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất. Đại cương là vậy, về chi tiết còn có 
nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, 
lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, 
như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần 
như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo
 như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên 
phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai 
loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở 
đều tốt. Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao 
địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước 
ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền
 Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được 
tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. 
Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng
 Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê 
Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net) 


