Một câu hỏi được đặt ra: Vậy trước thời bắc thuộc, dân tộc ta có thuật chọn ngày, chọn giờ chưa ? Dù sao “Quy lịch” lúc đó là phát hiện riêng của
các nhà thiên văn nước Việt Thường. Các nhà thiên văn Trung Quốc cũng
làm ra lịch của họ nhưng người Việt thường không theo lịch của Trung
Quốc. Mãi đến đời nhà Hán, dưới triệu Văn Vương (con trai của Trọng
Thuỷ, cháu của Triệu Đà), người nước ta vẫn dùng lịch truyền thống của
mình. Khi làm lịch, tổ tiên ta đã biết dựa vào những mốc tiêu chuẩn của
thời gian theo chu kỳ của mặt trời, mặt trăng. Tín hiệu còn thể hiện qua
hoa văn trống đồng Ngọc Lũ. Thí dụ: Trung Tâm mặt trống là hình ảnh mặt
trời, vòng trong là hạ chí, vòng giữa là vòng xuân phân, thu phân vòng
ngoài là Đông chí...”. (Trích “Vài nét về Văn hóa thời Hùng Vương” trong bài của GS. Bùi
Văn Nguyên đăng trong tạp chí Văn học số ra tháng 9,10/1973) Như vậy từ lich sử xa xưa, ta đã có lịch và qua đó suy luận ra ta
cũng đã có thuật chọn ngày. Kể cả khi tiếp thu thuật chiêm tinh trung
quốc, ta cũng không tiếp thu toàn bộ, nhất là trong dân gian các tục
kiêng cữ có nhiều chỗ khác nhau. Ở nước ta hồi đầu thế kỷ 20, nhất là trong phong trào “Duy Tân”,
nhiều nhà tri thức tân tiến đã lên tiếng công kích các thói hư tật xấu,
đã loại bỏ được nhiều hủ tục lỗi thời, trong đó tục chọn ngày cũng đã
giảm nhẹ và có phần cải tiến, không nhất mọi việc đều chọn ngày, chọn
hướng như thời xưa. Sau cách mạng tháng 8-1945, tiếp đến 9
năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Hiệp kỷ lịch ban hành dưới triều
nguyễn mất dần, số người biết chữ Hán thưa thớt dần, trước cao trào diệt
thù cứu nước, chẳng mấy ai quan tâm đến việc chọn ngày, chọn giờ: nhận
lệnh thì chiến đấu, công tác; ban ngày máy bay địch bắn phá thì hoạt
động ban đêm, nhà dột thì lợp lại trai gái yêu nhau, hai gia đình bằng
lòng, thấy ngày nào thuận tiện, thì hẹn nhau cưới ngày ấy, cưới hỏi muốn
đông người dự thì chọn ngày chủ nhật, muốn biết ngày nắng, ngày mưa thì
nghe dự báo thời tiết, chết thì chôn không để quá 24 giờ. Mọi việc như
xuất hành, tu tạo, hôn nhân, tang tế kể gì ngày giờ Hoàng đạo, Hắc đạo,
trùng phục, Trùng tang, trực khai, trực bế. vả lại trong không khí mọi
người bận rộn vật lộn với cuốc sống hàng ngày, tranh chấp giữa cái sống,
cái chết, cái đói, cái no, không còn điều kiện để chọn ngày tốt, tránh
giờ xấu, nghỉ phép được ít ngày, cố lo xong công việc để kịp trả phép,
thôi thì “vô sư, ô sách, quỷ thần bất trách”. Tuy rằng không mở sách, không mời thầy, nhưng tục chọn ngày chọn
giờ vẫn âm ỉ lan truyền trong dân gian. Mặc dầu quần chúng nhân dân mấy
ai biết: ngày nào là ngày “Thiên ân”, ngày nào là ngày “sát chủ”, nhưng
những câu nói cửa miệng vẫn có thế dùng làm cơ sở lý luận chọn ngày chọn
giờ. Thí dụ: Tâm lý chung thích chọn ngày chẵn, tránh ngày lẻ, tránh
tam nương, nguyệt kỵ, tránh ngày sóc (mồng 1), ngày nguyệt tận (cuối
tháng)... Đi chơi còn nhỡ nữa là đi buôn Cưới vợ làm
nhà chẳng được đâu (lấy tuổi mụ của người chủ sự, trừ bội số của số 9,
số dư cuối cùng là 1, 3,6 ,8 tức là tuổi Kim lâu) Gặp ngày con nước cũng về tay không. Làm nhà xem tuổi đàn ông. Mừng cho hai cháu đẹp duyên... Trên đây toàn là những câu truyền miệng trong dân gian nhưng khá phổ biến. Sau khi hoà bình
lập lại nhất là trong những năm gần đây, tập quán chọn ngày, chọn giờ
lại rộ lên. Ngoài những tư liệu thời xưa còn rải rác lưu truyền ở các
địa phương, còn nhiều sách vở từ Thái Lan, từ Đài Loan, Hồng Kông và các
nước Đông Nam á khác tràn vào. thầy cũ cộng thêm thầy mới, tự nhiên
hình thành tầng lớp thuật sĩ chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp đủ các
dạng.
“...Nhân dân Việt Thường đã biết xét nghiệm sự vật theo hiện tượng
thiên nhiên mà làm lịch để áp dụng vào nông nghiệp khá sớm. Sách thông
chí của Trịnh Tiều TQ chép rằng: Đời Đào Đường (Nghiêu) năm 2253 trước
công nguyên, phương Nam có họ Việt Thường cử sứ bộ, qua hai lần phiên
dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ sống một nghìn năm, mình dài hơn
ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu, ghi việc khi trời đất mở mang. Vua
Nghiêu sao chép lấy, gọi là “Quy lịch” (tức lịch rùa).
Vậy đây chưa rõ khoa văn đẩu 9 chữ hình con nòng nọc trên lưng con rùa
là văn sẵn trên mai nó, mà các nhà làm lịch nước Việt- thường nghiên
cứu theo sự tiến triển của nó hàng nghìn năm để rút ra quy luật về sự
tuần hoàn của thời tiết, hay đó là một thứ ký hiệu ta gọi là chữ Khoa-
đẩu mà các nhà làm lịch nước ta vạch lên mai rùa.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net)