
 
                         Lẽ  trời đất có thủy khởi 
phải có tận cùng, một năm đã bắt đầu ắt phải có hết, bắt  đầu từ lúc 
giao thừa, cũng lại hết vào lúc giao thừa. Theo Hán Việt Từ Điển của  
Đào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên
 hàng  năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới này, có lễ Trừ Tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ 
đi hết những điều xấu dở cũ kỹ  của năm cũ sắp qua để đón những cái mới 
mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới.  Lễ Trừ Tịch theo người Tàu 
còn là một lễ khu trừ ma quỷ. Tục  Tàu xưa vào ngày trừ Tịch, tức là 
ngày 30 Tết có dùng 120 trẻ con trạc chín  mười tuổi, mặc áo thâm, đội 
mũ đỏ, cầm trống vừa đi đường vừa đánh để trừ khử  ma quỷ, do đó có danh
 từ Trừ Tịch. Lễ Trừ Tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ  này còn mang
 tên là lễ Giao Thừa.  Xưa kia người ta cúng giao 
thừa ở đình, ông Tiên chỉ hoặc  thủ từ đứng làm chủ lễ, nhưng người ta 
cũng cúng giao thừa ở thôn xóm nữa. Lễ  giao thừa ở thôn xóm được tổ 
chức hoặc tại các văn chỉ nếu văn chỉ làng xây tại  xóm, nếu không thì 
cũng tổ chức ngay ở điểm canh đầu xóm. Ở đây vị được cử ra  làm chủ lễ 
là vị niên trưởng hoặc vị chức sắc cao nhất trong thôn xóm. Một  chiếc 
hương án được kê ra, trên hương án có đỉnh trầm hương hoặc bình hương 
thắp  tỏa khói nghi ngút. Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn Đèn dầu 
hoặc hai ngọn  nến. Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, 
mứt kẹo, trầu cau, hoa  quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm cỗ mũ
 của Đại Vương hành khiển. Lễ  quý hồ thành bất quý hồ đa, nhưng dù 
nhiều dù ít, lễ vật bao giờ cũng phải gồm  có vàng hương, vàng lá hay 
vàng thoi tùy tục địa phương và nhất là không quên  được rượu, vì vô tửu
 bất thành lễ.  Đến giờ phút này, chuông 
trống vang lên, ông chủ tế ra khấn  lễ, rồi dân chúng kế đó lễ theo,  
với tất cả sự tin tưởng ở vị tân vương hành khiển, cầu xin ngài phù hộ 
độ trì  cho được một năm may mắn, bao nhiêu sự không may năm trước sẽ 
qua hết. Tại đình  làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ thành hoàng 
hoặc vị phúc thần tại vị  nữa.  Các chùa chiền cũng có cúng 
lễ giao thừa, nhưng lễ vật và đồ  chay, đồng thời với lễ giao thừa nhà 
chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng Đức  Ông tại chùa. Ở các tư gia, 
các gia trưởng thường lập bàn thờ ở giữa sân, hoặc  ở trước cửa nhà, 
trường hợp những người ở thành phố không có sân, cũng một  chiếc hương 
án, hoặc một chiếc bàn kê ra với lễ vật như trên.  Ngày nay trước mọi biến 
chuyển dồn dập của thời cuộc nước  nhà, ở thôn quê, rất ít nơi còn cúng 
lễ giao thừa ở các thôn xóm, ngoài lễ cúng  tại đình đền. Và ở các tư 
gia, tuy người ta vẫn cúng lễ giao thừa với sự thành  kính như xưa, 
nhưng bàn thờ thì thật là giản tiện. Có khi chỉ là chiếc bàn con  với 
mâm lễ vât, có khi lễ vật được đặt trên một chiếc ghế đẩu. Hương thắp 
lên  được cắm vào một chiếc ly đầy gạo hoặc vào một chiếc lọ nhỏ để giữ 
chân hương.  Có nhiều gia đình hương thắp đặt ngay trên mâm lễ, hoặc cấm
 vào các khe nải  chuối dùng làm đồ lễ.      Ngày xưa quan niệm rằng mỗi 
năm Thiên đình lại thay toàn bộ  quan quân trông nom công việc dưới hạ 
giới, đứng đầu là một người có trí như  quan toàn quyền. Năm nào quan 
toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ  giới được nhờ như: 
Được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh  tật...Trái lại, gặp 
phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam...thì hạ giới chịu  mọi thứ khổ. 
Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân  quản 
hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống
  hạ giới tiếp quản thiên hạ. Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời 
quân đi,  quân về đây không trung tấp nập, vội vã, thậm chí có quan, 
quân còn chưa kịp ăn  uống gì.  Những phút ấy, các gia đình 
đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả,  toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, 
với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã  cai quản mình năm cũ và đón 
người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ  giới năm tới. Vì việc
 bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các  vị không thể
 vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội  vàng 
hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Vì cứ  
tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều 
nhà có  của đua nhau cúng giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng 
giao thừa nổi lên  bởi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các 
quan chú ý, quan tâm đến chủ  hảo tâm mà phủ hộ cho họ với những ưu ái 
đặc biệt. Trong đêm Giao Thừa, sau khi 
làm lễ giao thừa xong, có những  tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ 
thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người  theo giữ. Lễ chùa, đình, đền  Lễ giao thừa ở nhà xong, 
người ta kéo nhau đi lễ các đình,  chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may,
 để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản  thân và cho gia đình. Và nhân 
dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.  Kén hướng xuất hành  Khi đi lễ, người ta kén giờ 
và kén hướng xuất hành, đi đúng  hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh 
năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít  người kén giờ và kén hướng.  Hái lộc  Đi lễ đình, chùa, miếu, điện 
xong, lúc trở về người ta có  tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy 
lộc của Trời đất Phật Thần ban cho.  Trước cửa đình cửa đền, thường có 
những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá  xùm xòa, khách đi lễ mỗi 
người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang  về người ta cắm 
trước bàn thờ cho đến khi tàn khô. Với tin tưởng lộc hái về  trong đêm 
giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam  trong buổi xuất 
hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho  tốt lành 
may mắn.  Về tục xuất hành cũng như tục
 hái lộc có nhiều người không  đi trong đêm giao thừa, mà họ kén ngày 
tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và đi  đúng theo hướng chỉ dẫn trong 
các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm  hoàn toàn may mắn.  Hương lộc  Có nhiều người trong lúc xuất
 hành đi lễ, thay vì hái lộc  cành cây, lại xin lộc tại các đình đền 
chùa miếu bằng các đốt một nắm hương  hoặc một cây hương lớn, đứng khấn 
vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại  bình hương bàn thờ Tổ tiên
 hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà.  Ngọn lửa tượng trưng cho sự 
phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ  tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù 
hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm.  Trong lúc mang nấm hương từ 
nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp  gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin 
đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn  quanh năm. Thường những người 
làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ  tự.  Xông nhà  Thường cúng giao thừa ở nhà 
xong, người gia chủ mới đi lễ  đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường
 người ta kén một người dễ vía ra đi  từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi
 khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa  hoặc ở thôn xóm, sau đó 
xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang  năm mới, người 
này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm  về cho 
gia đình.  Đi xông nhà như vậy tránh 
được sự phải nhờ một người tốt,  vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu 
không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy,  người ta phải nhờ một người 
khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày  mồng một Tết đến xông 
nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem  lại sự dễ dãi 
may mắn lại. 
          (Trích Tín Ngưỡng Việt Nam)
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net) 


