
 
                        Một người 
làm khoa học chân chính chỉ  nên đưa ý kiến phản biện sau khi  đã đọc kỹ
 quan điểm đối lập, cân nhắc  chính xác những bằng chứng họ đề  ra xem 
chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào  không đồng ý, rồi chính mình phải  trưng 
cho được những chứng cứ ngược  lại để làm sáng tỏ vấn đề, không  nên nói
 chung chung, nói theo cảm tính.  Cho rằng Kinh Dịch là của Trung  Quốc 
hay của Việt Nam là quyền của mỗi  người, nhưng muốn bảo vệ niềm  tin 
này phải dựa vào chứng lý.
 Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào ?
 1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con
 long mã vẽ nên  bát quái. Đây  là chuyện hoang đường chỉ hợp với những 
người mê tín, ưa  sự huyền hoặc,  thế mà cũng được vô số người tin như 
thật. Nhưng Phục Hy  dù là nhân vật  huyền thoại vẫn không phải là thủy 
tổ chính thống của  người Hoa hạ. 
 Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung 
Quốc,   người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt
 Hoàng   Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không 
thể nói  là  của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là 
người Hoa đã   nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi 
Kinh Dịch của   Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông 
Viêm (16161 0   1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã 
cực lực phủ nhận   vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt 
Nam vẫn cứ tin! 2/   Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ 
Vương cầm tù ở Dữu   Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ 
hào từ Kinh Dịch.   Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu
 và uy tín của   Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta
 đã theo đó mà   tin không cần kiểm chứng.
 Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có 
Khổng   Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, 
thế mà   chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử 
ký,  lương  tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có 
lẽ Văn  Vương  diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là 
Văn  Vương diễn  Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.
 Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn   
Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ   
Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ   
nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch.
 Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay,  
cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – 
 Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn  nhiều câu chuyện  
bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các  nhà Dịch học Trung
  Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương  khỏi vương quốc 
 Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện  huyễn hoặc cứ cố  
níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt.
 3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc
  lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch  là các quan 
coi  việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch  có các từ 
phán  đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô  cữu, 
nhiều lời  hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy  
thuyết phục vì  hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu 
hỏi  sẵn đưa ra  để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời
 là  nhận hoặc  phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí
 của  hào, bản  chất của hào, thời của quẻ.
 4/ Phát hiện mới  nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng
  nguồn gốc của quẻ  Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim 
Văn.  Nhóm Chu Bá  Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các 
chữ số  trong phép  bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng 
minh tại  sao trong  Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” 
(Dịch học,  tr.63).
 Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu 
nguồn   gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng 
nhất  định  trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu 
không  ngoài  loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án 
được gọi  là công  nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư
 liệu ngày  càng  nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch
 học,   tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo
 dài   hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo 
phương   thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn 
chưa làm   rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông 
tin, Hà Nội.  1996, tr.27).
 Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc   
đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì 
  cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi  
cái  họ đã ném đi.
 Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì ?
 Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” 
trong  tác phẩm Dịch Kinh linh thế,  tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn
 đề  xuất những chứng cứ như Nguyễn  Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, 
Trần  Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn  Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc
 Lâm …
 Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận 
những   chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên 
Việt   Nam qua mấy điểm sau:
 Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn  
 thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn   
chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng  
Vương – Thanhnienonline).
 Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận 
  từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép 
  trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh
   tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net).
 Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền 
  và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền 
và   hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại 
  thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng 
thức  nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline).
 Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là
  từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch –  
Dunglac.net).
 Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên
   Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã 
  được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này  
 được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có
   thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch 
  cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch 
đồ   nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản
  sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline)
 Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh  
Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện
  Sơn Tinh Thủy Tinh  là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người 
 Trung Hoa chỉ cần  thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu
  chuyện nói về lũ  lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc  
tích của Kinh. Truyền  thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch
  (Các bài trên  Anviettoancau.net – cùng tác giả).
 Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ 
  nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả
   Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng 
cho   tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay 
chua   xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ 
huyền án   này.                      
                    
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (XemTuong.net) 


