
 
                        VI.- Khoa Tử-vi 
          đời trần Quay về   | Trở 
                  về đầu | Xem 
          tiếp  
          1.- Trường hợp được trọng 
          dụng
               Khoa Tử-vi được triều Trần biết 
          đến trong một dịp đặt biệt: Thái-tử Hoảng bị bệnh 
          mê man suốt ba ngày rồi mắt trợn ngược, tưởng qua đời. 
          Vua đem thanh Thượng-phương bảo kiếm và áo Ngự-bào để 
          bên cạnh rồi tuyên chỉ ;
          - Nếu tỉnh dậy sẽ ban cho. Ý nói sẽ truyền ngôi. Nhưng 
          Thái-tử mắt vẫn trợn ngược. 
          
               Hoàng hậu, phi tần khóc lóc thảm 
          thiết, chuẩn bị chôn cất, nhân thấy Huệ-Túc phu nhân 
          văn hay chữ tốt, có ý nhờ viết bài vị. Vì vậy phu nhân 
          biết ngày, giờ, tháng, năm sinh của Thái-tử. Phu nhân bấm 
          số, rồi tâu:
                - Xin Hoàng-hậu đừng lo, Thái-tử 
          chỉ mê man thôi, giờ Sửu ngày mai sẽ tỉnh dậy. Vua và 
          Hoàng-hậu tin tưởng và hỏi tại sao phu nhân biết? Phu 
          nhân tâu:
               - Thần tính số Tử-vi của Thái-tử 
          thấy Đồng, Âm thủ mệnh tại Tý. Cung phúc tại Dần 
          có Cự, Nhật. Tử-vi kinh nói rằng:
          
          “ Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, 
          ai, khổ, 
          Do ư phúc trạch cát hung”.
          
               Nghĩa là : Giàu, 
          sống lâu, làm lớn, tiếng tăm, chết non, đau thương, khổ, 
          do cung phúc tốt hay xấu. Đây cung Phúc của Thái-tử 
          có Cự, Nhật tại Dần, lại có Tả, Hữu, Xương, Khúc 
          hợp chiếu, thì căn cơ là người thọ lắm. Mệnh lại 
          được Đồng, Âm tại Tý... thế thì Thái tử không 
          chết non, sau còn trở thành vị minh quân anh hùng, tạo sự 
          nghiệp rạng rỡ cho họ Đông-a và cho nhà Đại-Việt 
          nữa. Hiện Thái-tử bị hạn Tang, Hổ, Kiếp, Hình thì đau 
          yếu nặng đó thôi. 
               Vua và Hoàng-hậu còn phân vân chờ 
          đến giờ Sửu hôm sau, thì Thái-tử tỉnh dần, rồi khỏi 
          hẳn. Sau là vua Trần Thánh-tông, một vị vua anh hùng trong 
          lịch sử Đại-Việt. Nhân đó vua Thái-tông mới hỏi 
          lý do tại sao phu nhân biết, phu nhân mới trình bày khoa 
          Tử-vi. Vua Thái-tông triệu Hoàng Bính vào cung, tiên sinh 
          dâng lên hai bộ sách Tử vi chính nghĩa và Triệu Thị Minh 
          Thuyết Tử-vi kinh. Vua Thái tông và hoàng tộc nhà Trần 
          lại đua nhau nghiên cứu Tử-vi, và dùng như một nguyên 
          tắc để cử người giúp nước.
          
           2.- Một sự kiện sáng tỏ nhờ 
          Tử-vi
               Qua những lá số được Huệ-Túc 
          phu nhân và vương hầu đời Trần chấm còn để lại, ngày 
          nay chúng ta thấy được nhiều khía cạnh lịch sử. Như 
          hiện trong văn học sử, người ta không biết vị thiền 
          sư đắc đạo Tuệ-Trung thượng sĩ đời Trần, bản sư 
          của Trần Nhân-tông là Trần Quốc Tung, anh ruột Hưng Đạo 
          vương Trần Quốc Tuấn, tước phong Hưng-Ninh vương hay là 
          Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con thứ nhì của Hưng 
          Đạo vương? 
          
               Căn cứ vào lá số của Huệ-Túc 
          phu nhân, người sống đồng thời với Hưng Ninh vương, 
          lại là thím của ngài, là sư phụ của ngài về khoa Tử-vi, 
          thì những gì do phu nhân viết về ngài phải đúng. Hơn 
          nữa phu nhân lại là người tích cực tiến cử Hưng Đạo 
          Vương giữ chức vụ Tiết-chế binh mã, tức là Tổng tư 
          lệnh quân đội, thì chắc chắn tình nghĩa thím cháu, vua 
          tôi, thầy trò, phu nhân viết về gia đình Hưng Ninh Vương, 
          Hưng Đạo vương không sai. Phu nhân chấm số cho Hưng-Ninh 
          vương có phê như sau:
          
          "... Kinh vân Tử, Tham, Mão Dậu 
          đa vi thoát tục chi tăng. Ngô kim nhật kiến Tuệ Trung chi 
          số: Tử, Tham ư Dậu ngộ Quyền, Đào, tuấn nhã chi 
          lang. Tả, Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn 
          hiềm Tử, Tham cư Dậu ngộ Không, Kî tất thoát tục 
          vi tăng”. Nghĩa là sách Tử-vi kinh nói rằng: người 
          mệnh lập tại Dậu hay Mão, mà có Tử-vi, Tham lang thủ 
          mệnh đa số là người thoát tục đi tu. Nay ta xem số của 
          Tuệ Trung thì thấy mệnh lập tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang 
          thủ mệnh, còn gặp Đào-hoa, Hóa-quyền thì là người 
          đẹp đẽ. Được Tả, Hữu hợp chiếu thì là người 
          đa tài, đa năng. Nhưng tiếc rằng cái số và mệnh lập 
          tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang thủ mệnh,gặp Thiên-không, Hóa-kỵ 
          thì thế nào cũng đi tu."
          
               Từ sự kiện trên ta tìm được 
          Tuệ Trung thượng sĩ là Hưng-Ninh vương Trần Quốc Tung, 
          chứ không phải là Trần Quốc Tảng.
          
          3.- Phá cách, trợ cách
               Qua các tài liệu còn lại, thì 
          khoa Tử-vi đời Trần có một sắc thái đặc biệt hơn 
          ở Trung-quốc, đó là Phá cách và 
          Trợ cách. Câu chuyện Đoàn Nhữ 
          Hài là một bằng cớ. Nếu Tống Thái-tổ biết Trịnh Ân 
          bị nạn mà cứu không được, thì vua Trần Nhân-Tông biết 
          Đoàn Nhữ Hài bị nạn mà cứu thoát. Câu chuyện như 
          sau:
          
               Đoàn Nhữ Hài là học trò trường 
          Quốc-tử giám ở Thăng-long. Năm 20 tuổi, Hài chuẩn bị 
          để thi Thái-học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học 
          sinh thì Hài phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, 
          nếu thấy khá thì mới được cử đi thi. Một hôm ra chùa 
          Diên hựu (chùa Một-cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn 
          trời, Hài hỏi:
               - Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe 
          rằng người tu hành có thể biết được vận số sau này 
          sẽ ra sao, có đúng không?
               Hòa thượng hỏi:
          - Tiên sinh muốn biết điều gì?
          - Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh 
          mong sư phụ chỉ giáo cho tương lai.
          
               Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, 
          năm sinh của Hài rồi nói:
          - Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa 
          là số phò tá vua ở sân rồng, tức là số làm tới tể 
          tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là người 
          đa tài, đa năng. Tử-vi kinh nói, Tả-phụ, Hữu-bật bình 
          tính khắc khoan, khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành 
          sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi 
          chiếu là cách Nhật, nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp 
          minh quân. Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào-hoa, 
          Hồng loan cư nô, lại gặp Hình, thì tất thế nào cũng 
          vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng. 
          Đáng tiếc, đáng tiếc.
          
               Hài mừng lắm trở về lo học 
          hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử 
          giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. 
          Hài giận lắm, tìm vị hòa thượng hỏi:
          - Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể-tướng, 
          thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái-học 
          sinh được? Không đậu Thái-học sinh thì sao có thể làm 
          Tể-tướng?
               Vị Hòa-thượng cười đáp:
          - Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể-tướng mà 
          không đậu đại khoa? Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể-tướng, 
          chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm nay tiểu hạn 
          tiên sinh nhập cung Dậu được Thái-dương miếu địa, Hóa-khoa 
          từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên-nhan. 
          Nhưng đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên-mã gặp Đà-la 
          tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu 
          gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên 
          sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp vua, nhưng tiên 
          sinh nhớ một điều:
          
               Khi được gặp vua, nếu hoàng-thượng 
          ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp cho lão tăng 
          một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng 
          đoán gặp vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa 
          Diên-hựu để hỏi tội hòa-thượng. Nhưng trên đường 
          đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng phải, té lăn 
          vào bụi cỏ. Hài túm lấy dây cương hạch tội:
          - Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù đụng phải ta?
               Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc 
          áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ 
          lỗi:
          - Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên 
          sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc 
          đây!
          Hài bực mình nói:
          - Ta học trường Quốc-tử giám, sắp thi Thái-học sinh, 
          thì Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu, Tam-giáo đều thông. Sao 
          lại không biết chữ?
          Người cỡi ngựa tiếp:
          - Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, 
          tôi sẽ bảo quan Quốc-tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. 
          Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng 
          nguyên, được chăng?
          - Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người 
          cho Thái-học sinh đậu Trạng-nguyên, đó là vua. Nhà ngươi 
          là ai mà dám nói lớn lối như vậy?
               Người kia đáp:
          - Tôi là Vua đây.
               Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ 
          người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. 
          Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi 
          chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-tông nhường 
          ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường 
          hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ 
          say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về 
          Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông 
          thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám 
          dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám. 
          Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh 
          được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan 
          về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh-tông. Đến 
          giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy 
          tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy 
          tới chùa Từ-phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai 
          người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn 
          Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng 
          Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải 
          quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn 
          hay, truyền nhau đọc.
               Thượng-hoàng nghe được hỏi:
          - Văn ở đâu mà hay như vậy?
          Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng 
          truyền:
          - Đưa vào đây!
               Ý ngài muốn nói rằng đưa bài 
          biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn 
          Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp 
          biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn 
          xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:
          - Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. 
          Nay gặp tiên sinh ở đây
          thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa 
          Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng 
          phán:
          - Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa 
          này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi 
          cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ 
          đó (tức Trần Quốc Tung).
          Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với 
          hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một 
          võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của 
          Hài, rồi phán:
                - Số của tiên sinh là số của 
          bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng 
          tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy 
          ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, 
          Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan 
          vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.
          Vua Anh-tông tâu rằng:
          - Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được 
          số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được 
          Đoàn tiên sinh không?
               Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh 
          Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn tử 
          trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy 
          trong kinh Kim-cương:
          
          “Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, 
          Vô thọ giả tướng, tứ đại giai
          không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, 
          của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn 
          cái đó đều là hư ảo..
          
          Thượng-hoàng phán:
          - Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp 
          tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, 
          có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, 
          Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết 
          chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền 
          đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì 
          dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức 
          là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể 
          cứu được tiên sinh.
               Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông 
          phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là 
          lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 
          tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó 
          ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:
               Phong hiến luận đàm truyền cổ 
          ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: 
          Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán 
          Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa. 
               Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ 
          Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và Thiên-thương, 
          triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài 
          với một cung nữ của vua Anh-Tông. Luật triều Trần rất 
          khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với thường dân khi 
          ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người 
          chồng tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại 
          thần với một cung nữ. Nên cả hai bị khép tội chém đầu. 
          May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa cuốn 
          kinh Kim-cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh- Tông 
          truyền gả cung nữ cho Đoàn Nhữ Hài. 
          
               Đoạn trên đây chúng tôi 
          tóm lược trong sách Đông-a di sự, phần Đoàn Nhữ 
          Hài liệt truyện.
          
          4.- Tinh hoa khoa Tử-vi đời Trần
                Hầu hết những bậc vua chúa, 
          vương hầu nhà Trần đều nghiên cứu Tử-vi, để làm chìa 
          khóa biết kẻ trung, người nịnh, biết vận hạn, mưu đồ 
          đại sự.
               Như khi triều đình phân vân không 
          biết nên hòa với Mông-cổ, cho Mông-cổ mượn đường 
          đánh Chiêm-thành, hay nhất định chống lại, vua Thái-tông 
          do dự không quyết, Huệ- Túc phu nhân chấm số cho tất 
          cả vua, hoàng-hậu, vương hầu, tướng sĩ, thấy đa số 
          là những vĩ nhân, làm nên những chuyện kinh thiên động 
          địa. Có một số bị chết thảm nhưng tiếng tăm vang dậy. 
          Phu nhân quyết định rằng: nên đánh. Bởi đánh thì sẽ 
          thắng, có thắng các vương hầu mới có sự nghiệp vĩ 
          đại như vậy. Một vài người tuy tuẫn quốc thật nhưng 
          danh thơm muôn thuở.
               Có ai ngờ việc quyết định vận 
          số quốc gia như thế, mà do khoa Tử-vi chiếm một phần. 
          Khoa Tử-vi đời Trần cũng dựa theo bộ Tử-vi chính nghĩa, 
          rồi nghiên cứu rộng ra về phá cách và trợ cách. Tỷ 
          dụ, Tử-vi kinh nói rằng :
               Thiên-hình, Thất-sát cương táo 
          nhi cô. Nghĩa là, người có thiên-hình, Thất-sát thủ mệnh 
          thì tính tình nóng nảy, cứng rắn quá mà hóa cô độc. 
          Muốn khuyên răn, chế ngự bớt sự cuồng táo đó, phải 
          dùng người mệnh có Thái-dương, Thiên-đồng, Thiên-lương, 
          Văn-xương, Văn-khúc, Đào-hoa, Hồng-loan. Bởi các sao 
          này có thể giảm bớt sức nóng nảy của Hình, Sát. Tuyệt 
          đối không dùng người mệnh có Kiếp, Không, Kình, Đà, 
          Tang, Hổ đã đành mà còn tránh dùng người có Tử-vi, Thiên-phủ, 
          bởi Tử, Phủ kỵ Hình, Sát. Như muốn phá người mệnh 
          có Tử, Phủ thì dùng người có Kiếp, Không, Kỵ, Hình 
          thủ mệnh. Tử, Phủ thì ngay thẳng, Kiếp, Không thì gian 
          trá, tiểu nhân vậy dùng những mánh lới hạ cấp sẽ làm 
          cho người Tử, Phủ khốn khổv.v.... Khoa Tử-vi còn đi sâu 
          hơn nữa. Như người có cung Phúc tại Thìn được Thái-dương 
          tọa thủ, tức là được hưởng phúc ngôi mộ ông hoặc 
          bố. Muốn ếm người đó, thì dùng cách ếm mộ ông nội 
          hay cha y, thì y khốn khổ ngay.
          
               Lối này trước đây người ta 
          đã dùng để ếm mộ ông nội nhà văn Phạm Quỳnh, sau 
          này ếm mộ nhà Ngô. Khi cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm 
          còn tại vị, nhiều người thù ghét, sau biết ngôi mộ 
          tổ được cách Long phụng triều thì con trai, con gái, con 
          dâu sự nghiệp đều vĩ đại cả. Người ta đã ếm ngôi 
          mội này. Thành ra khi con long bị đau, nó dẫy lên, lại 
          một người nam bị nạn, khi con phụng dẫy lên thì có một 
          người nữ bị nạn. Cái lối ếm này rất thất đức, 
          nên chúng tôi không trình bày chi tiết vào đây. Tỷ dụ: 
          Nhà Trần đã dùng lối ếm đó để diệt dòng dõi họ 
          Chế ở Chiêm-thành. Trần Khắc Chung vì thương yêu Huyền 
          Trân công chúa, mà công chúa bị triều đình nhà Trần gả 
          cho Chế Mân, Khắc Chung tìm biết số Tử-vi của Chế Mân, 
          rồi tìm ngôi mộ cung Phúc đức ếm, nên chỉ một năm 
          sau Chế Mân chết. 
        
      
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (XemTuong.net) 


