Trong lớp
học, trước tiên tôi sẽ điều chỉnh cơ thể của quý vị lên một trạng thái
thích hợp cho việc tu luyện ở cấp cao, sau đó tôi sẽ gắn Pháp Luân và
khí cơ (bộ máy khí) vào trong cơ thể của quý vị. Tôi cũng sẽ dạy các bài
động tác cho quý vị. Ngoài ra tôi cũng có các Pháp thân sẽ theo bảo vệ
quý vị. Nhưng có những điều đó thôi cũng chưa đủ, vì mục đích để phát
triển công vẫn chưa đạt được. Nó còn đòi hỏi quý vị cũng phải hiểu rõ
các nguyên lý tu luyện ở cấp cao. Ðây chính là mục đích của quyển sách
này.
Tôi đang giảng về công ở cao tầng. Vì vậy tôi sẽ không bàn tới sự tu
luyện về một mạch, một huyệt hay một kinh lạc đặc biệt nào hết. Tôi đang
giảng về đại pháp để tu luyện, một đại pháp nhằm mục đích tu luyện thật
sự về cao tầng. Lúc đầu nó có thể nghe như hoang đường, nhưng đối với
những người dốc chí tu luyện khí công, xem xét kỹ lưỡng và chứng nghiệm
bản thân, thì tất cả bí mật đều gói trọn trong đó.
1. Nguồn gốc của khí công
Khí công mà chúng ta nói đến ngày nay, thật ra, không được gọi là khí
công lúc ban đầu. Nó có nguồn gốc từ sự tu luyện bí truyền của người
Trung hoa thuở xưa, hay sự tu luyện trong tôn giáo. Qua các kinh sách về
Ðan Kinh, Ðạo Tạng và Ðại Tạng Kinh, không bao giờ tìm thấy hai chữ
"khí công" cả. Trong giai đoạn hiện tại của nền văn minh nhân loại đương
thời, khí công đã trải qua thời kỳ ấu trĩ của tôn giáo. Nó đã hiện hữu
trước khi tôn giáo được thành hình. Sau khi tôn giáo được thành lập, nó
đã một phần bị pha trộn bởi tôn giáo. Danh xưng nguyên thủy của nó là
"Ðại Pháp Tu Phật" hay là "Ðại Pháp Tu Ðạo". Hơn nữa, nó cũng có thời
được mang tên như là "Kim Đan Cửu Chuyển", "La-Hán Pháp", "Thiền Kim
Cang", v..v. Bây giờ chúng ta gọi là "khí công" để thuận theo ý thức hệ
tân thời hơn và cũng để dễ dàng phổ biến trong xã hội. Khí công thật ra
đã có mặt ở Trung hoa với mục đích rất thuần túy là tu luyện bản thân
con người.
Khí công không phải do nhân loại của chúng ta phát minh ra. Nó có một
lịch sử khá lâu dài và xa xôi trong quá khứ. Vậy chứ khi nào thì khí
công được biết tới? Có người nói rằng khí công được thịnh hành dưới đời
nhà Ðường và có một lịch sử khoảng ba ngàn năm. Có người nói rằng nó có
một lịch sử khoảng năm ngàn năm, trải dài như nền văn minh Trung quốc.
Có người nhận xét từ các di tích khảo cổ và cho rằng nó có một lịch sử
khoảng bảy ngàn năm. Tôi thấy khí công không được phát minh ra bởi nhân
loại đương thời. Nó thuộc về nền văn hóa tiền sử. Theo sự tra cứu của
những người có công năng1,
vũ trụ mà chúng ta đang sinh sống đây là một hợp thể sau chín lần bị nổ
tung ra. Hành tinh chúng ta đang ở đã bị hủy diệt nhiều lần rồi. Sau
mỗi lần như vậy trái đất đã được phối trí lại và nhân loại bắt đầu sinh
xôi nảy nở trở lại. Hiện tại, chúng ta đã khám phá được nhiều điều trong
thế giới tiến vượt xa nền văn minh đương thời. Dựa vào học thuyết tiến
hóa của Darwin, con người tiến hóa từ loài khỉ, và nền văn minh không
vượt quá mười ngàn năm trở lại. Nhưng các khám phá về di tích khảo cổ
cho thấy trong các hang động ở dãy núi Alps (Bên Âu Châu có các bức vẽ
trên vách đá đã xuất hiện cách đây khoảng 250,000 năm, mà giá trị nghệ
thuật rất cao, vượt hẳn khả năng của người thời nay. Trong viện bảo tàng
của Ðại Học Quốc Gia ở Peru có một tảng đá lớn khắc hình người cầm một
viễn vọng kính đang quan sát các thiên thể. Hình này đã có cách đây trên
30,000 năm. Như quý vị biết, Ga-li-lê chế ra một kính viễn vọng để xem
thiên văn với độ lớn 30 lần vào năm 1609, tức là chỉ cách đây hơn 300
năm. Làm sao có thể có một kính viễn vọng cách đây 30,000 năm được? Có
một thanh sắt ở Ấn Ðộ mà chất sắt đạt đến một tỷ lệ 99 phần trăm ở trong
đó. Kỹ thuật luyện kim tân thời không thể nào sản xuất được sắt với độ
tinh khiết cao như vậy, vì nó đã vượt xa trình độ kỹ thuật tân thời. Ai
đã tạo ra nền văn minh đó? Lúc đó loài người có lẽ chỉ là các sinh vật
vi tế, vậy làm sao có khả năng sáng tạo ra các điều này? Các khám phá
này gây chú ý cho các khoa học gia toàn thế giới. Vì không thể giải
thích các điều này nên người ta gọi chung nó là nền “văn hoá tiền sử".
Trình độ khoa học khác biệt nhau ở mỗi thời kỳ, có thời kỳ nó tương
đối cao, vượt xa trình độ nhân loại đương thời. Tuy vậy những nền văn
minh đó đã bị hủy diệt. Vì lý do đó, tôi nói rằng khí công không được
phát minh hay tạo ra bởi người thời nay, nhưng được người thời nay phát
hiện và làm cho hoàn hảo hơn, nó thuộc về nền văn hóa tiền sử.
Khí công thật ra không chỉ là sản phẩm của xứ ta, nó cũng có mặt tại
các nước khác. Tuy vậy nó không được gọi là khí công, các nước tây
phương như là Hoa kỳ, Anh quốc,v..v gọi nó là ảo thuật. Có một ảo thuật
gia ở Mỹ tên là David Cooperfield, thật ra anh ta có mang một số công
năng, làm cho anh ta có thể biểu diễn màn đi xuyên qua bức Vạn Lý Trường
Thành. Khi sắp sửa bước xuyên qua bức tường, anh ta dùng một tấm vải
trắng để che anh ta lẫn bức tường lại, và rồi đi xuyên qua nó. Tại sao
anh ta đã làm như vậy? Vì theo cách đó, phần lớn người ta sẽ nhìn nó như
là một màn trình diễn ảo thuật. Nó phải được làm theo lối này vì anh ta
biết rằng có rất nhiều cao nhân ở Trung quốc. Anh ta sợ sẽ bị ảnh hưởng
bởi những người này, vì vậy anh ta đã tự che mình lại trước khi bước
vào bức tường. Khi từ bức tường đi ra, anh ta dơ một tay ra kéo tấm vải
lên trước và bước ra ngoài. Người Trung hoa có câu tục ngữ là: "Người
trong cuộc mới hiểu rõ sự tình, còn người ngoài chỉ thấy sự náo nhiệt",
theo lối này thì khán giả nghĩ rằng đó là một trò ảo thuật. Lý do họ gọi
những công năng này là trò ảo thuật, vì họ không dùng nó để tu luyện
thân thể, mà chỉ dùng để biểu diễn các phép thuật và trình diễn giúp vui
trên sân khấu. Vì vậy, ở cấp thấp, khí công có thể làm thay đổi các
trạng thái vật lý của thân thể con người, đạt đến mục đích chữa bệnh và
giữ gìn sức khỏe (khu bệnh kiện thân); Ở cấp cao, khí công chính là tu
luyện bản thể2.
2. Khí và công
“Khí” mà chúng ta nói đến hiện nay đã được người thời xưa gọi là “Khí”.
Cả hai trong cốt tủy của nó đều ám chỉ khí của vũ trụ, tức là một loại
vật chất vô hình vô tướng trong vũ trụ. Nó không liên hệ gì đến khí
trong không khí. Qua sự tu luyện, năng lượng của chất liệu này trong cơ
thể con người sẽ trở nên hoạt động, làm thay đổi trạng thái vật lý của
cơ thể, đạt đến tác dụng để trừ bệnh và khỏe mạnh. Nhưng khí vẫn chỉ là
khí. Quý vị có khí, người khác cũng có khí. Khí với khí không có tác
dụng kiềm chế lẫn nhau. Có người cho rằng khí có thể trị bệnh được; hay
cho rằng quý vị có thể phát khí ra để trị bệnh cho người nào đó. Các lời
này rất phản khoa học, vì từ căn bản khí không thể chữa được bệnh tật
gì hết. Khi người luyện công vẫn còn mang khí trong mình, có nghĩa là họ
chưa đạt đến trạng thái Thân Trắng Như Sữa (Nãi Bạch Thể), tức là họ
vẫn còn mang bệnh tật trong người.
Một người luyện công đến trình độ cao không phát khí,
thay vào đó họ phát ra một chuỗi cao năng lượng, chất cao năng lượng
này thể hiện dưới hình thức ánh sáng với các hạt vi tử rất mịn và rất
đậm đặc. Ðây là công, chỉ khi đó nó mới có tác dụng kiềm chế người
thường, mới có thể chữa bệnh cho họ. Có câu châm ngôn như thế này: "Phật
quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh". Nó có nghĩa là người tu luyện
theo chính pháp mang năng lượng thật to lớn trên mình họ, bất kỳ nơi nào
họ đi qua, họ có thể điều chỉnh bất cứ tình trạng bất thường nào đó
trong vùng ảnh hưởng bởi năng lượng của họ và thiết lập lại trạng thái
bình thường. Chẳng hạn như bệnh tật trong cơ thể con người chỉ là điều
kiện bất bình thường đang xảy ra trong cơ thể đó, các bệnh tật sẽ hết
sau khi tình trạng này được sửa chữa. Nói rõ hơn nữa công chính là năng
lượng. Công có các biểu hiện vật chất, qua sự tu luyện, người luyện công
có thể kinh nghiệm và nhận xét được sự tồn tại khách quan của nó.
3. Công lực và công năng
(1) Công lực do sự tu luyện tâm tính mà có
Cái công3 thật sự quyết định cấp bậc công lực4
của một người không đến từ sự tập luyện các động tác, nó đến từ sự
chuyển hóa của chất "đức" và từ sự tu luyện tâm tính. Quá trình chuyển
hóa này không phải là thành quả của việc bắc nồi đặt lò (an đỉnh thiết
lư), sắt thuốc luyện đan (thái dược luyện đan) như người thường tưởng
tượng ra. Cái công mà chúng tôi nói ra đây được sinh sản phía bên ngoài
của cơ thể, bắt đầu từ phân nửa dưới của cơ thể, tùy theo sự nâng cao
tâm tính nó phát triển lên phía trên theo hình xoắn ốc, và được tạo
thành trọn vẹn ở phía ngoài cơ thể, sau đó nó phát triển thành ra một
cột trụ công (công trụ) ở trên đỉnh đầu. Cột trụ công cao đến đâu quyết
định công của một người cao đến đó. Cột trụ công hiện hữu trong một
không gian được giấu kín và rất sâu thẳm nên người thường không dễ gì
nhìn thấy nó được.
Công năng5
được gia tăng sức mạnh bởi công lực, công lực càng cao và cấp bậc của
một người càng cao thì công năng của một người càng mạnh và càng dễ vận
dụng những quyền năng này; Người với công lực thấp có các công năng nhỏ
hơn, khó vận dụng chúng hơn, thậm chí không thể vận dụng được. Công năng
tự nó không biểu hiện cấp bậc công lực của một người hay là trình độ tu
luyện của một người. Công lực là yếu tố quyết định trình độ của một
người chứ không phải là công năng. Một số người tu theo phương thức
"khóa kín", công lực của họ rất cao, nhưng không nhất định có nhiều công
năng. Công lực là yếu tố quyết định, và do sự tu luyện tâm tính mà có.
Ðây là điều then chốt nhất.
(2) Công năng không phải điều mà người luyện công theo đuổi
Mọi người luyện công đều quan tâm đến công năng, các
phép thần thông rất lôi cuốn và hấp dẫn trong xã hội, và nhiều người
muốn có nó. Nhưng nếu tâm tính không tốt, người ta sẽ không có thể có
được những quyền năng này.
Vài công năng có thể được sở hữu bởi người thường,
như khai mở thiên mục, thiên nhĩ, thần giao cách cảm và biết trước tương
lai. Nhưng những quyền năng nay thay đổi tùy theo mỗi cá nhân, chúng nó
không thể hiện ra cùng một lượt trong trạng thái tiệm ngộ (giác ngộ từ
từ). Vài công năng không thể nào được ban cho người thường, chẳng hạn
như việc biến chuyển một loại vật thể trong không gian vật lý này thành
ra một loại vật thể khác, đây không phải là thứ mà người thường có thể
có được. Các công năng vĩ đại có được nhờ sự tu luyện trước từ tiền
kiếp. Pháp Luân Công phát triển thuận theo các luật của vũ trụ, vì vậy
các công năng nào có trong vũ trụ cũng đều có trong Pháp Luân Công, tất
cả đều tùy thuộc vào cách thức tu luyện của người luyện công. Ý nghĩ để
có được vài công năng không bị xem là sai trái, tuy vậy, đeo đuổi theo
chúng một cách quá trớn không được xem như một tư tưởng bình thường và
sẽ sinh ra các hậu quả xấu. Công năng không được sử dụng nhiều cho lắm
khi đạt được ở cấp thấp, trừ phi sử dụng chúng để biểu diễn khả năng của
người đó trước mặt các người thường khác và trở thành người trội hơn
giữa đám đông. Trong trường hợp này, nó cho thấy tâm tính của người đó
không cao lắm và đúng ra không nên cấp công năng cho người đó. Vài công
năng nếu giao cho người với tâm tính xấu có thể được sử dụng để làm điều
sai trái, vì tâm tính của họ không chín chắn nên không bảo đảm là họ sẽ
không làm điều xấu.
Nhìn từ một khía cạnh khác bất cứ công năng nào có
thể tiết lộ và biểu diễn thì không thể được sử dụng để thay đổi xã hội
loài người hay là để sửa đổi sinh hoạt bình thường trong xã hội. Những
công năng thứ thiệt không được phép tiết lộ và biểu diễn, vì tầm ảnh
hưởng và sự nguy hiểm quá rộng lớn. Chẳng hạn như là người ta không được
biểu diễn phá sập một tòa nhà lầu lớn. Nhất là đối với các quyền năng
vĩ đại, trừ phi những người mang sứ mạng đặc biệt, các công năng vĩ đại
đều không được cho phép sử dụng, cũng như không có thể tiết lộ chúng vì
các thượng sư khống chế việc này.
Tuy nhiên một số người thường nài nỉ các thầy khí
công biểu diễn, bắt buộc họ tiết lộ các công năng để cho các người này
có thể trông thấy. Người có công năng thường không muốn sử dụng chúng để
biểu diễn, vì họ không được phép tiết lộ chúng ra, đem chúng ra sử dụng
sẽ có tầm ảnh hưởng đến tình trạng của toàn xã hội. Người chân chính
với nhiều đức tính tốt không được phép sử dụng các công năng của họ nơi
công cộng. Vài thầy khí công cảm thấy rất khó chịu trong lúc trình diễn,
sau khi trở về nhà họ muốn khóc thét lên. Xin đừng buộc họ phải biểu
diễn! Họ sẽ cảm thấy rất bối rối khi phải tiết lộ những thứ đó. Tôi thấy
rất ác cảm khi đọc một tạp chí mà một học viên đang cầm trên tay. Nó đề
cập tới một hội nghị khí công quốc tế đang được tổ chức, người có công
năng có thể tham dự một cuộc đọ sức, người nào có quyền năng mạnh nhất
có thể đi dự hội nghị đó. Sau khi đọc xong, tôi cảm thấy rất khó chịu
trong nhiều ngày. Ðây không phải là điều có thể được tiết lộ giữa công
chúng để tranh tài, trình diễn chúng nơi công cộng là điều thật đáng
tiếc. Người thường mà, họ chú trọng đến những điều thực tế trong thế
gian này, nhưng những thầy khí công phải biết tự trọng.
Ham muốn những công năng với mục đích gì? Nó phản ảnh
cảnh giới của tư tưởng và sự mong cầu của người luyện công, tư tưởng
không chính đáng, không chín chắn, nên không thể đạt được các công năng
cao. Ở đây có một nguyên nhân, là vì trước khi quý vị được hoàn toàn
giác ngộ, điều tốt hay xấu mà quý vị nhìn thấy chỉ là dựa trên các tiêu
chuẩn pháp của thế gian này, quý vị không thể nhận ra bản chất thật sự
của mọi vật, không thể thấy các quan hệ nhân duyên giữa các sự việc. Ấu
đả, mắng chửi và bắt nạt nhau giữa người thường do các liên hệ nhân
duyên mà ra, nếu không hiểu thấu điều đó quý vị có thể chỉ làm cho rối
ren thêm. Chuyện ân oán, thị phi của người đời, đã có pháp của thế gian
lo rồi, người luyện công không nên dính vào. Vì trước khi quý vị đạt đến
giai đoạn giác ngộ trọn vẹn, những gì mắt quý vị thấy không nhất thiết
là sự thật. Khi một người đấm đá một người khác, có lẽ là họ đang giải
quyết món nợ nhân quả6
của họ, sự can thiệp của quý vị có thể làm trở ngại việc thanh toán món
nợ của họ. Nghiệp là chất đen bao quanh cơ thể con người, nó là một vật
chất hiện hữu trong một không gian khác mà có thể được chuyển hóa thành
ra bệnh tật hay tai họa.
Mọi người đều có công năng, vấn đề là phải khai thác
và gia tăng sức mạnh của chúng qua sự tu luyện liên tục. Là người luyện
công, nếu chỉ mong cầu đạt được các công năng thì người đó có cái nhìn
thiển cận, tư tưởng không trong sạch, không kể người đó muốn công năng
để làm gì, nó hàm chứa sự ích kỷ mà nhất định sẽ cản trở việc luyện
công, kết quả là người đó không đạt được bất kỳ quyền năng nào.
(3) Cách sử dụng công lực
Có người luyện công chưa tập luyện lâu cho lắm, nhưng
họ muốn chữa bệnh cho người khác, muốn thử xem nó có kết quả không. Ðối
với những người mà công lực của họ chưa cao cho lắm, khi quý vị đưa tay
ra và thử chữa bệnh, quý vị thu hút một khối lượng chất đen lớn, tức là
khí bệnh, khí dơ bẩn, từ cơ thể của bệnh nhân sang cơ thể của mình. Vì
quý vị không có năng lực để phòng chống lại khí bệnh, và hơn nữa cơ thể
của quý vị chưa có tấm chắn bảo vệ, quý vị ở trong cùng vùng ảnh hưởng
(trường) với bệnh nhân, không có một công lực thật cao quý vị sẽ không
thể nào tự bảo vệ được, kết quả là quý vị sẽ cảm thấy rất là khó chịu.
Nếu không có người độ cho quý vị, một thời gian sau, quý vị sẽ mang bệnh
tật đầy mình. Cho nên người không có công lực cao, không nên trị bệnh
cho người khác. Trừ phi quý vị đã phát triển được các công năng và đạt
được một trình độ công lực nào đó, thì quý vị có thể dùng khí công để
chữa bệnh. Ngay cả một số người đã phát triển công năng và có thể chữa
bệnh, khi ở cấp thật thấp, thật ra họ đã sử dụng công lực tích tụ được
để chữa bệnh, tức là dùng năng lực của chính mình để chữa bệnh. Vì công
là năng lượng và cũng là một linh thể mà không dễ gì thu thập được, nên
phát công ra thật sự sẽ làm tiêu hao công của quý vị đi. Kèm theo sự
phát công của quý vị, cột trụ công trên đầu của quý vị sẽ ngắn lại và
tiêu hao bớt đi, điều này quả không đáng làm chút nào. Vì vậy tôi không
chủ trương việc trị bệnh cho người khác khi công lực của quý vị chưa
được cao cho lắm. Không kể thủ pháp của quý vị cao đến đâu, quý vị vẫn
làm tiêu hao năng lượng của chính mình.
Khi công lực của quý vị đã đạt đến một trình độ nào
đó, đủ loại công năng sẽ xuất hiện. Khi sử dụng các công năng này quý vị
cần phải rất cẩn thận. Chẳng hạn như người ta phải sử dụng Thiên mục
khi nó đã khai mở vì nó sẽ đóng lại nếu quý vị không bao giờ sử dụng nó.
Tuy vậy quý vị không được nhìn bằng thiên mục thường xuyên. Nếu sử dụng
nó quá thường xuyên, rất nhiều năng lượng sẽ bị mất đi. Vậy có phải là
quý vị đừng bao giờ sử dụng nó? Dĩ nhiên là không. Nếu chúng ta không
bao giờ có thể dùng nó vậy chúng ta tu luyện nó để làm gì? Vấn đề là khi
nào sử dụng nó. Chỉ khi nào quý vị tu luyện đến một trình độ nào đó và
có khả năng tự bổ xung năng lực trở lại thì quý vị có thể sử dụng nó.
Khi người tu theo Pháp Luân Công đạt đến một trình độ nào đó, Pháp Luân
có thể chuyển hóa tự động và cung cấp trở lại không kể bao nhiêu công mà
người đó phát ra. Pháp Luân tự động duy trì mức độ công lực cho người
luyện công. Công không có giảm đi bất cứ lúc nào. Ðây là đặc điểm của
Pháp Luân Công. Chỉ đến lúc này mới có thể sử dụng các công năng.
4. Thiên mục
(1) Khai mở thiên mục 7
Lối thông ra (thông đạo) chính của thiên mục nằm giữa trung tâm của trán và sơn căn8.
Cách người thường nhìn thấy với mắt phàm cũng giống như nguyên tắc chụp
hình với máy ảnh. Tùy theo khoảng cách giữa vật thể và cường độ ánh
sáng, cùng với sự điều chỉnh của ống kính hay kích thước của con ngươi,
hình ảnh được tạo thành bởi các thần kinh thị giác trên tuyến tùng quả9
nằm ở phân nữa phía sau của đại não. Công năng nhìn xuyên thấu thật ra
là trực tiếp sử dụng tuyến tùng quả nhìn thẳng ra bên ngoài thông qua
thiên mục. Thiên mục của một người trung bình không thông vì khe hở của
lối thông ra chính rất là chật hẹp, rất đen tối, không có chút linh khí,
không phát quang. Lối thông ra của một số người bị tắt nghẽn vì vậy họ
không có thể thấy được.
Ðể khai mở thiên mục, trước hết chúng ta dùng sức
mạnh ở bên ngoài hay là sức mạnh tự tu luyện được để khai mở lối thông
ra. Hình dạng của lối thông ra thay đổi tùy mỗi cá nhân và nó có dạng
như hình bầu dục, hình tròn, hình thoi và hình tam giác, người luyện
thật giỏi thì lối thông ra rất tròn. Thứ nhì là vị thầy ban cho một con
mắt, nếu tự mình tu luyện thì phải tự tạo nên con mắt này. Thứ ba là
phải có tinh hoa khí ở vị trí của thiên mục.
Thông thường chúng ta thấy được nhờ sử dụng cặp mắt
này, đúng ra là hai mắt này ngăn chặn lối thông ra của chúng ta vào các
không gian khác. Nó vận hành như là một tấm chắn, vì vậy chúng ta chỉ có
thể nhìn thấy các đồ vật hiện hữu trong không gian vật chất của chúng
ta mà thôi. Sự khai mở thiên mục cho phép người ta nhìn thấy mà không
cần sử dụng hai mắt này. Sau khi đạt đến một trình độ rất cao, quý vị
cũng có thể tu có được một chân nhãn. Rồi thì quý vị có thể sử dụng chân
nhãn của thiên mục hay là chân nhãn ở nơi sơn căn để nhìn. Theo Phật
Gia thì mỗi lỗ chân lông là một con mắt, có mắt ở trên khắp cơ thể con
người. Theo Đạo Gia thì mỗi điểm huyệt (huyệt vị) là một con mắt. Tuy
vậy lối thông ra chính là thiên mục, nó phải được khai mở trước tiên.
Trong lớp học tôi đã gắn cho mọi người những thứ để có thể khai mở thiên
mục. Vì cơ thể của mỗi người có tố chất khác nhau nên hiệu quả cũng
không như nhau. Có người thấy một lỗ đen tương tự như một cái giếng sâu,
điều này có nghĩa là lối thông ra của thiên mục màu đen. Có người thấy
lối thông ra màu trắng, thiên mục sắp được mở nếu thấy đồ vật ở trước
đường hầm này. Có người thấy đồ vật quay vòng, đấy là những thứ Thầy gắn
cho để khai mở thiên mục. Quý vị sẽ có thể nhìn thấy một khi thiên mục
được khai thông hoàn toàn. Có người có thể nhìn thấy một con mắt lớn qua
thiên mục của họ và nghĩ rằng đó là mắt Phật. Thật ra đó chính là mắt
của họ. Ðây thường là những người có căn cơ bẩm sinh (tiên thiên) tương
đối tốt.
Theo thống kê của chúng tôi, trong mỗi lớp học có hơn
phân nửa người có thiên mục được khai mở. Một vấn đề được nêu ra khi
thiên mục mở là người với tâm tính không cao lắm có thể dễ dàng sử dụng
nó để làm điều xấu. Ðể tránh vấn đề này, tôi mở thiên mục của quý vị
thẳng đến cấp huệ nhãn thông, nói khác đi là mở đến một cấp cao để cho
phép quý vị thấy trực tiếp các cảnh vật ở các không gian khác và để nhìn
thấy những thứ có thể sẽ xuất hiện trong lúc tu luyện để tạo thêm niềm
tin cho quý vị, làm cho niềm tin vào sự luyện công thêm vững chắc hơn.
Người vừa mới bắt đầu luyện công thì tâm tính của họ chưa thể đạt đến
cao độ của người siêu thường. Nên khi họ có được những điều siêu phàm,
nó rất dễ để họ làm những điều sai trái. Lấy một thí dụ vui vui là nếu
quý vị đi ngoài đường và gặp quầy bán vé sổ số, quý vị có thể rời đó với
một giải nhất. Ðiều này cắt nghĩa điều tôi muốn nói. Nó không được phép
xảy ra như vậy. Một lý do khác nữa là hãy xét sự khai mở thiên mục của
chúng ta ở đây trong một phạm vi rộng lớn. Thí dụ như thiên mục của mọi
người được mở ở một cấp thấp, hãy chỉ tưởng tượng rằng nếu mọi người có
thể trông thấy xuyên qua cơ thể con người, hay là có thể thấy các đồ vật
phía sau bức tường; chúng ta còn có thể gọi đây là xã hội người thường
nữa không? Nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến trạng thái của xã hội người
thường, do đó, nó không được phép cũng như không được thực hiện. Hơn
nữa, nó không đem lại lợi ích gì cho người luyện công, và chỉ dung túng
thêm sự ràng buộc10
của người luyện công. Vì lý do đó, chúng tôi không mở thiên mục cho quý
vị ở một cấp thấp, thay vào đó chúng tôi mở nó trực tiếp ở cao tầng.
(2) Các cấp bậc của thiên mục
Thiên mục có nhiều cấp bậc khác nhau. Tùy theo cấp bậc, nó trông thấy các cõi giới khác nhau. Theo Phật giáo có năm cấp bậc11
là: Nhục Nhãn Thông, Thiên Nhãn Thông, Huệ Nhãn Thông, Pháp Nhãn Thông
và Phật Nhãn Thông. Mỗi cấp bậc lại chia ra thành các cấp phụ là thượng,
trung và hạ. Ở các cấp từ thiên nhãn thông trở xuống, nó chỉ quan sát
được thế giới vật chất của chúng ta. Chỉ ở các cấp từ huệ nhãn thông trở
lên nó sẽ có thể quan sát các không gian khác. Một số người có công năng xuyên thấu12,
nhìn còn chính xác hơn các Máy Tạo Hình (Quét ảnh C.T). Tuy nhiên,
những gì họ có thể trông thấy vẫn còn nằm trong thế giới vật chất này và
chưa vượt khỏi không gian mà chúng ta đang ở. Nó không thể được xem như
đã đạt đến một trình độ cao cấp về thiên mục.
Cấp bậc của thiên mục tùy thuộc vào số lượng tinh hoa
khí của một người cũng như bề rộng, độ sáng và góc độ cản trở của lối
thông ra chính. Tinh hoa khí ở bên trong là điều then chốt để xem thiên
mục có thể được mở trọn vẹn chưa. Ðiều đặc biệt là rất dễ mở thiên mục
cho trẻ em dưới 6 tuổi. Ngay cả tôi không cần dùng tay nữa; nó mở ngay
lập tức khi tôi bắt đầu nói vì trẻ em tiếp nhận rất ít ảnh hưởng xấu
trong thế giới vật chất này của chúng ta và chưa phạm phải lỗi lầm nào
hết. Tinh hoa khí của chúng được giữ gìn rất tốt. Ðối với trẻ em trên 6
tuổi, thiên mục của chúng càng khó mở hơn vì do nơi các ảnh hưởng xấu từ
bên ngoài càng gia tăng khi chúng lớn lên. Ðặc biệt nữa là với một nền
giáo dục không tốt, bại hoại, và trở thành đồi bại có thể làm cho tất cả
tinh hoa khí tan biến mất. Sau khi tuột dốc đến mức độ nào đó, nó sẽ
biến mất đi. Những người mà tinh hoa khí hoàn toàn mất hẳn đi có thể dần
dần khôi phục lại qua việc luyện công, nhưng nó đòi hỏi nhiều thời gian
và nhiều cố gắng hơn. Cho nên tinh hoa khí rất là quý báu.
Tôi không chủ trương mở thiên mục ở cấp thiên nhãn
thông, vì khi công lực của người luyện công còn thấp, họ sẽ bị mất nhiều
năng lượng khi sử dụng thiên mục hơn là năng lượng thu thập được qua sự
luyện công. Nếu linh khí bị mất nhiều quá, thiên mục có thể bị đóng lại
lần nữa, một khi nó đóng lại thì sẽ không dễ gì mà mở nó lại lần nữa.
Vì vậy khi tôi mở thiên mục cho ai, tôi thường mở nó ở cấp huệ nhãn
thông. Các người tu luyện sẽ có thể thấy các cảnh vật của các không gian
khác mặc dầu có thể thấy rõ hay mờ. Do ảnh hưởng của các điều kiện bẩm
sinh (tiên thiên), có người có thể thấy được rõ ràng, có người thấy lúc
ẩn lúc hiện; có người không thấy được rõ ràng, tuy nhiên ít ra quý vị
cũng có thể thấy được ánh sáng. Vì vậy nó mang lại ảnh hưởng tốt cho
người luyện công để phát triển lên trình độ cao hơn nữa. Những người
không thấy rõ ràng sẽ có thể khá hơn qua sự luyện công.
Những người thiếu chất tinh hoa khí chỉ thấy các hình
ảnh trắng đen khi nhìn bằng thiên mục. Ðối với những người tương đối có
nhiều tinh hoa khí hơn, thiên mục của họ sẽ có thể thấy các cảnh vật
bằng màu sắc và hình dạng rõ ràng hơn. Càng có nhiều tinh hoa khí thì
càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Tuy nhiên, mỗi cá nhân đều khác nhau. Có
người bẩm sinh thiên mục đã mở, trong khi một số người khác bị đóng rất
chặt. Khi thiên mục đang mở ra, nó giống như cái bông đang nở từng lớp
này đến lớp khác. Trong lúc ngồi thiền, lúc khởi đầu quý vị sẽ phát hiện
thiên mục có một đóm sáng, lúc bắt đầu, cái đóm này không sáng chói cho
lắm, và sau đó chuyển sang màu đỏ. Có người thiên mục bị đóng gắt quá
nên phản ứng lúc đầu của họ cũng rất mạnh mẽ. Họ sẽ cảm thấy các bắp
thịt chung quanh lối thông ra chính và vùng sơn căn đang căng phồng lên
như bị ép và bóp chặt về phía bên trong. Hai bên thái dương và trước
trán của họ bắt đầu cảm thấy như phồng to lên và đau nhức do các phản
ứng của sự khai mở thiên mục. Người có thiên mục dễ mở đôi khi có thể
thấy điều gì đó. Trong lớp học, có người tình cờ thấy được pháp thân của
tôi. Khi họ cố gắng nhìn chăm chú hơn thì nó biến mất. Thật ra, họ đã
sử dụng mắt thịt của họ. Quý vị phải giữ yên trạng thái khi trông thấy
điều gì với đôi mắt khép lại, và dần dần quý vị sẽ thấy chúng rõ hơn.
Khi quý vị muốn thấy gần hơn nữa, quý vị đã thật sự chuyển qua nhìn bằng
mắt thịt của mình và sử dụng các thần kinh thị giác. Khi đó, quý vị sẽ
không thể thấy được gì hết.
Thiên mục ở các cấp bậc khác nhau có thể nhận thức
được các cõi khác nhau. Một số cơ sở nghiên cứu khoa học không hiểu đạo
lý này và kết quả là vài cuộc thí nghiệm về khí công không đạt được hiệu
quả mong muốn. Nhiều lần các thí nghiệm ngay cả dẫn đến kết quả ngược
lại. Chẳng hạn như có một đơn vị thiết kế một phương pháp để trắc nghiệm
các công năng, họ yêu cầu các thầy khí công nhìn vào trong một hộp đậy
kín. Vì cấp bậc thiên mục của những thầy khí công này không giống nhau,
nên các câu trả lời kết quả trắc nghiệm của họ cũng không giống nhau. Vì
vậy, các nhân viên làm trắc nghiệm cho thiên mục là sai lầm, họ có cái
nhìn lệch lạc. Thông thường người có thiên mục mở ở cấp thấp đạt được
kết quả khả quan hơn với loại thí nghiệm này, vì thiên mục của họ mở ở
cấp thiên nhãn thông, rất thích hợp để chỉ quan sát các đồ vật trong
không gian vật chất này. Vì vậy người không hiểu rõ thiên mục nghĩ rằng
những người này có các công năng tối cao. Tất cả các vật thể, bất luận
vật hữu cơ hay vô cơ, hiện ra với hình dáng khác nhau trong các không
gian khác nhau. Chẳng hạn cái ly thủy tinh khi vừa được chế tạo ra, thì
đồng thời có một linh thể sinh ra ở một không gian nào đó. Hơn nữa, ngay
cả trước khi linh thể này xuất hiện, nó có thể có điều gì khác nữa. Với
thiên mục ở cấp thấp nhất, người ta sẽ thấy lớp thủy tinh. Ở một cấp
cao hơn, người ta sẽ thấy một linh thể hiện diện trong một không gian
khác. Ở một cấp cao hơn nữa, người ta sẽ thấy hình thức của vật chất
trước khi có sự xuất hiện của linh thể.
(3) Công năng dao thị
Sau khi mở thiên mục, có người có được công năng dao thị
(công năng thấy xa), họ có thể nhìn thấy các đồ vật ở cách xa ngàn dặm.
Mỗi cá nhân chiếm cứ khoảng không gian riêng của họ và nó cũng rộng lớn
bằng kích thước của vũ trụ, trong khoảng không gian riêng biệt13
này, họ có một tấm gương trước trán, nhưng không thấy được trong cõi
không gian của chúng ta. Mọi người đều có tấm gương này, chỉ là người
không luyện công thì nó quay vào trong, người luyện công thì tấm gương
này từ từ quay chung quanh trục của nó. Khi quay tấm gương này có thể
phản chiếu những gì người đó muốn thấy. Trong cõi không gian riêng biệt
này, người đó tương đối to lớn, cơ thể của họ khá lớn và tấm gương này
cũng thật lớn. Bất cứ cái gì người tu muốn nhìn thấy có thể được phản
chiếu lại trên tấm gương. Tuy vậy một khi tấm gương ghi nhận được hình
ảnh, người đó cũng chưa có thể thấy nó được. Hình ảnh sẽ lưu lại trên
tấm gương trong khoảnh khắc, xong rồi tấm gương sẽ quay nữa, làm cho quý
vị thấy được hình ảnh của đồ vật hiện trên đó. Nó sẽ lật trở lại thật
mau. Nó quay lui và tới không ngừng nghỉ. Phim chớp bóng di động 24 hình
trong một giây để đạt được động tác liên tục. Tốc độ mà tấm gương lật
qua còn mau hơn đó nữa, vì vậy, các hình ảnh dường như liên tục và rõ
ràng. Ðây là dao thị. Nguyên tắc của dao thị thật là đơn giản. Ðiều này
vẫn được giữ thật bí mật, tuy vậy tôi tiết lộ nó với chỉ vài hàng.
(4) Các cõi không gian
Không gian, dựa vào những điều chúng ta trông thấy,
quả thật là phức tạp. Nhân loại chỉ biết không gian mà con người hiện
đang sống, và các cõi không gian khác thì chưa được thám hiểm hay là
khám phá tới. Nói về những điều đến từ các không gian khác, các thầy khí
công của chúng ta đã nhìn thấy hàng tá các cấp bậc không gian khác nhau
và cũng có thể dùng lý luận để giải thích sự hiện hữu của nó, nhưng
khoa học không thể chứng thực được. Có một số điều, ngay cả nếu quý vị
không chấp nhận sự hiện hữu của chúng, nhưng chúng vẫn được phản ánh một
cách trung thực trong không gian của chúng ta. Chẳng hạn như có một nơi
gọi là quần đảo Bermuda, hay còn được mệnh danh là "vùng tam giác quỷ",
một số tàu bè đã biến mất trong vùng này, một số máy bay cũng mất tích
luôn, và sau đó lại xuất hiện trở lại vài năm sau đó. Không ai có thể
giải thích được nguyên nhân, không ai đi quá giới hạn của các tiến trình
suy nghĩ và lý luận của con người. Thật ra, nó là một đường đi vào một
không gian khác. Không giống như cánh cửa bình thường của chúng ta với
một vị trí cố định, nó ở một trạng thái không ổn định. Nếu chiếc tàu nào
tình cờ đi vào khi cánh cửa được mở, nó có thể đi vào cõi không gian
khác rất dễ dàng. Con người không thể cảm nhận được sự khác biệt giữa
các không gian, và họ đi vào trong một không gian khác trong nháy mắt.
Khoảng cách giữa các không gian không thể nào được diễn đạt bằng dặm,
như là cách xa hàng ngàn dặm. Mọi thứ đều hội tụ vào một điểm nơi đây.
Các không gian khác nhau thật sự xảy ra cùng nơi chốn và cùng thời gian.
Chiếc tàu nhảy vào trong một chốc lát và trở ra lại do sự tình cờ thôi.
Tuy vậy, nhiều năm đã trôi qua trong thế giới này vì thời gian khác
nhau ở hai cõi không gian này. Có nhiều thế giới đồng nhất14
hiện hữu trong mỗi không gian, tương tự như mô hình của các cấu trúc
nguyên tử, một quả cầu được nối liền với quả cầu khác bằng một đoạn
thẳng và rất nhiều quả cầu lẫn nhiều đoạn thẳng liên kết với nhau như
vậy, nó quả thật là phức tạp.
Bốn năm trước kỳ thế chiến tranh thế giới lần thứ 2,
một phi công người Anh đang thi hành một công tác. Khi đang bay giữa
chừng, anh ta đụng phải một cơn bão táp rất lớn. Dựa theo kinh nghiệm,
anh ta tìm gặp một phi trường bỏ hoang. Vừa lúc phi trường xuất hiện
trước mắt anh ta, một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn đến trong tầm nhìn của
anh ta, nó bỗng nhiên nắng chói và không có chút mây nào như thể anh ta
vừa mới hiện ra từ một thế giới khác. Các máy bay đậu ở phi trường này
sơn màu vàng, và người ta đang bận rộn làm việc trên mặt đất, anh ta có
cảm giác rất lạ! Sau khi hạ cánh, không ai nhận ra anh ta. Ngay cả đài
kiểm soát không lưu cũng không có liên lạc với anh ta. Người phi công
quyết định rời khỏi nơi đó vì trời đã tạnh bão. Anh ta bay trở lại, và
lúc tới cùng khoảng cách mà anh ta thấy phi trường này phút chốc trước
đó, anh ta lại đâm đầu vào cơn bão táp một lần nữa. Cuối cùng anh ta
xoay trở để ra khỏi nơi đó. Khi anh ta báo cáo tình trạng này và anh ta
cũng ghi xuống trong sổ phi hành, cấp trên của anh ta không tin chuyện
đó. B
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (XemTuong.net)