H11: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương – Thái Âm
Phối tất cả những vị trí đối xứng lên địa bàn 12 cung của lá số thì chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H12.
H12: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương – Thái Âm
Xét nghiệm nội dung
H11 và H12, không khó để chúng ta nhận ra rằng hai sao Thái Dương và
Thái Âm chuyển động ngược chiều nhau. Thái Dương chuyển động thuận
chiều kim đồng hồ còn Thái Âm thì chuyển động ngược chiều kim đồng hồ.
Chuyển đổi địa bàn 12
cung hình vuông trở về lại 12 cung hình tròn rồi cho quỹ đạo của Thái
Dương [TD1 cho tới TD12] nằm ở vòng ngoài đi thuận theo chiều kim đồng
hồ và cho quỹ đạo của Thái Âm [TA1 cho tới TA12] nằm ở vòng trong đi
ngược chiều kim đồng hồ, chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H13.
Thái Dương và Thái Âm cùng nằm trên trên trục Sửu Mùi [TD1-TA1 ở Sửu và
TD7-TA7 ở Mùi] còn tất cả những vị trí khác đều đối xứng qua trục
Sửu-Mùi. Thí dụ như Thái Dương ở Dần [TD2] đối xứng với Thái Âm ở Tí
[TA2] qua trục Sửu-Mùi, Thái Dương ở Mão [TD3] đối xứng với Thái Âm ở
Hợi [TA3] qua trục . . .
H13: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương -Thái Âm
Nhìn vào hình H13,
thêm một lần nữa không khó để chúng ta nhận ra là sự chuyển động của
Thái Dương và Thái Âm khế hợp chặt chẽ và hoàn toàn với hai dòng vận
hành trên Việt Dịch Đồ, hình H14.
H14: Việt Dịch Đồ
(Nguồn: Việt Dịch của Hà Hưng Quốc)
Hai dòng vận hành này
đại diện cho hai dòng hành khí, Hành Khí Âm (HKA) nằm bên trong [vòng
màu xanh lá] chuyển động ngược kim đồng hồ và Hành Khí Dương (HKD) nằm
bên ngoài [vòng màu đen] chuyển động thuận chiều kim đồng hồ.
Như chúng ta đã biết
Tí là vị trí “âm cực dương sinh” còn Ngọ là vị trí “dương cực âm sinh.”
Nếu chúng ta gán một con số định lượng cường độ cho HKA và HKD ở mỗi vị
trí [cũng là ở mỗi thời điểm trong chu kỳ sinh hoá trên Việt Dịch Đồ]
thì con số nhỏ nhất sẽ nằm tại Tí và con số lớn nhất sẽ nằm tại Ngọ cho
HKD, và hoàn toàn ngược lại cho HKA. Hãy cho con số nhỏ nhất đó là số
không [0] và giả dụ thêm là sự thay đổi trong cường độ của hành khí từ
một vị trí này sang vị trí kế bên là tăng thêm hay giảm bớt một đơn vị
cường độ, và hãy cho đơn vị cường độ đó là một [1], thì kết quả theo đó
sẽ giống như hình H15. Dấu cộng [+] trước mỗi con số là để chỉ khí
dương và dấu trừ [-] trước mỗi con số là để chỉ khí âm. Cường độ của
HKD tăng dần từ Tí tới Ngọ và giảm dần từ Ngọ tới Tí, tăng dần từ +0 tới
+6 và giảm dần từ +6 tới +0. Cường độ của HKA tăng dần từ Ngọ tới Tí
và giảm dần từ Tí tới Ngọ, tăng dần từ -0 tới -6 và giảm dần từ -6 tới
-0.
H15: Hành Khí Của Cặp Thái Dương-Thái Âm
Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi
Hình H15 tuy là giúp
cho chúng ta dễ dàng nhìn thấy sự chuyển dịch của hành khí qua từng thời
điểm [vị trí], cường độ của hành khí tại mỗi thời điểm và dạng biến đổi
của dòng hành khí một cách tổng quát nhưng lại không giúp cho chúng ta
dễ dàng nhận ra sự đối xứng của Thái Dương và Thái Âm được mã hoá trong
từng cặp TD1-TA1, TD2-TA2, TD3-TA3 . . . cho tới TD12-TA12. Để làm nổi
lên yếu tố đối xứng, chúng ta có thể xếp đặt lại thông tin trong hình
H15 một cách khác. Và kết quả cho thấy giống như trong hình H16.
H16: DNA Của Cặp Thái Dương – Thái Âm
Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi
Dòng hành khí dương
của sao Thái Dương và dòng hành khí âm của sao Thái Âm được trình bày
dưới dạng dây sóng. Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Dương chuyển dịch tuần
tự từ TD1 tới TD12. Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Âm chuyển dịch tuần
tự từ TA1 tới TA12. Hai dây sóng đi ngược chiều nhau. Và mỗi điểm TDn
trên dây sóng Thái Dương được nối với một điểm TAn trên dây sóng Thái Âm
và chúng đối xứng nhau qua trục Sửu-Mùi. Dạng dây sóng của hai dòng
hành khí được hình thành do “phiên dịch” khoảng cách giữa Thái Dương và
Thái Âm ở mỗi thời điểm đối xứng qua trục Sửu-Mùi. Có nghĩa là khi Thái
Dương và Thiên Phủ cùng tại Sửu thì khoảng cách TD1-TA1 là 0 độ, Thái
Dương tại Dần và Thái Âm tại Tí thì khoảng cách TD2-TA2 là 60 độ, Thái
Dương tại Mão và Thái Âm tại Hợi thì khoảng cách TD3-TA3 là 120 độ, Thái
Dương tại Thìn và Thái Âm tại Tuất thì khoảng cách TD4-TA4 là 180 độ,
Thái Dương tại Tỵ và Thái Âm tại Dậu thì khoảng cách TD5-TA5 là 120 độ,
Thái Dương tại Ngọ và Thái Âm tại Thân thì khoảng cách TD6-TA6 là 60
độ, Thái Dương và Thái Âm tại Mùi thì khoảng cách TD7-TA7 là 0 độ. Và
chiều dài của mỗi dây nối liền một TD với một TA đại diện cho một khoảng
cách vừa nói. Tưởng tượng một đường thẳng chạy từ Sửu tới Mùi ở hai đầu
của dãy sóng, xuyên qua Sửu và Mùi ở giữa, và chia dãy sóng thành hai
phần trên và dưới. Đường thẳng tưởng tượng này chính là trục đối xứng
Sửu-Mùi. Dãy sóng của cặp Thái Dương – Thái Âm có hình dạng giống như
cấu trúc DNA cho nên chúng ta tạm gọi nó là DNA của cặp Thái Dương –
Thái Âm.
Như chúng ta được
biết, bất cứ sao nào cũng đều có vị trí miếu địa, vượng địa, đắc địa hay
hãm địa cho riêng nó. Thái Dương và Thái Âm cũng không ngoại lệ.
Vị trí miếu, vượng,
đắc, hãm của hai sao Thái Dương và Thái Âm mà chúng ta biết hiện nay có
thể nói là đạt được sự đồng thuận của các danh gia Tử Vi ngoại trừ một
vài bất đồng nhỏ. Tổng kết trong hình H17 cho thấy điều này.
H17: Vị Trí Miếu, Vượng, Đắc, Hãm Của Thái Dương Và Thái Âm
Giống như Tử Vi và
Thiên Phủ, dựa vào những gì vừa được khám phá thì chúng ta cũng có thể
nói dường như Thái Dương và Thái Âm là hai sao được hư cấu trên nền tảng
âm dương. Chúng đại diện cho cái gì thì chưa biết. Nhưng đã là được
cấu tạo trên nền tảng âm dương thì qui luật của âm dương tự nó sẽ quyết
định tính chất miếu, vượng, đắc, hãm chứ không thể nào quyết định bởi
qui luật ngũ hành. Dựa vào sự quan sát và phán đoán này, chúng ta có
thể tiến hành kiểm nghiệm tính chất miếu, vượng, đắc, hãm của cặp sao
Thái Dương – Thái Âm với thông tin đã có sẵn trong các hình H15 và H16.
Khác với Tử Vi và
Thiên Phủ, tuy là cặp Thái Dương – Thái Âm cũng là một cặp sao hư cấu
của hai dòng hành khí vận hành ngược chiều trong cùng một hệ thời-không
và tuy là tính đối xứng qua trục Sửu-Mùi là chìa khóa xác định sự tương
tác của hai dòng hành khí đó nhưng nó không có chiếc chìa khóa “bình
hòa” như Tử Phủ cho nên chúng ta có thể xét cường độ hành khí của chúng
độc lập với nhau được. Nói một cách khác, tương tác của hai dòng hành
khí âm dương này nằm ở một dạng khác, không giống như dạng tương tác
củaTử Phủ.
Từ những thông tin
trong hình H16 chúng ta có thể rút ra và kiến tạo đường biểu diễn MVĐH
(miếu, vượng, đắc, hãm) của Thái Dương và Thái Âm như cho thấy trong
hình H18.
H18: Đường Biểu Diễn MVĐH của Thái Dương Và Thái Âm
Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương trong hình H18 chúng ta nhận ra được:
Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Âm trong hình H18 chúng ta nhận ra được:
Không khó cho chúng
ta nhận ra là đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương -Thái Âm trong hình
H18 đã cung cấp cơ sở và qui luật hợp lý trong việc phân định những vị
trí miếu, vượng, đắc, hãm của hai sao Thái Dương và Thái Âm. Kết quả
cho thấy nó trùng khớp với thông tin trong bảng tổng hợp ý kiến của các
danh gia Tử Vi, hình H17. Đặc biệt là nó hoàn toàn đồng ý với Thiên
Phúc Vũ Tiến Phúc trong sự phân định miếu, vượng, đắc, hãm của Thái
Âm.
Cả hai cặp Tử Vi – Thiên Phủ và Thái Dương – Thái
Âm đều được hư cấu từ hai dòng âm dương vận hành. Và cả hai cặp chánh
tinh đều có sự khế hợp ngoạn mục với Việt Dịch Đồ. Mỗi cặp lại cho ra
đường biểu diễn MVĐH khác nhau rất xa trong hình dạng lẫn khác xa trong
qui luật phân định vị trí miếu, vượng, đắc, hãm.
Câu hỏi được đặt ra là: mỗi cặp chánh tinh này thực ra là đại diện cho cái gì trong môn Tử Vi???
Nhìn vào đường biểu
diễn MVĐH của Thái Dương và Thái Âm chúng ta nhận thấy mỗi đường gồm có
hai pha (2 phases). Một nữa là chiều tăng trưởng liên tục. Một nửa kia
là chiều thoái giảm liên tục. Đường biểu diễn của Thái Dương và Thái
Âm lại luôn luôn ở vào tình trạng trái ngược nhau, tức là khi đường biểu
diễn MVĐH của Thái Dương đang ở pha tăng trưởng thì đường biểu diễn
MVĐH của Thái Âm đang ở pha thoái giảm. Và tính cách tương tác kiểu này
giữa hai dòng hành khí rất giống với tính cách tương tác của Nhật
Nguyệt.
Có phải Thái Dương và Thái Âm đại diện cho Nhật
Nguyệt? Trước khi trả lời, chúng ta hãy nhìn vào hình H19, nó là kết
quả của việc tái cấu trúc lại toàn bộ thông tin có sẳn trong các hình
H15, H16 và H18.
H19: MVĐH của Thái Dương (Nhật) và Thái Âm (Nguyệt)
Bên trong vòng tròn
là hãm địa. Bên ngoài vòng tròn là đất miếu vượng. Từ Sửu đến Mùi,
Thái Âm hãm [bên trong vòng tròn] còn Thái Dương thì miếu vượng [bên
ngoài vòng tròn]. Từ Mùi đến Sửu, Thái Âm miếu vượng [bên ngoài vòng
tròn] còn Thái Dương bị hãm [bên trong vòng tròn]. Thái Dương và Thái
Âm đích thực là đại diện cho Nhật Nguyệt.
Đối chiếu với cặp Tử
Vi – Thiên Phủ, chúng ta còn thấy Thái Dương tốt đẹp từ Sửu tới Mùi thì
Tử Vi cũng tốt đẹp từ Sửu tới Mùi. Thái Âm tốt đẹp từ Mùi đến Sửu thì
Thiên Phủ cũng tốt đẹp từ Mùi đến Sửu. Nói một cách khác, Thái Dương có
sự tương thông với Tử Vi và Thái Âm có sự tương thông với Thiên Phủ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (XemTuong.net)