Ngoài ra, còn có cung Thân, sẽ được
an chung với các cung sau: Mệnh, Phúc, Quan, Di, Tài, Phu Thê. Ý nghĩa mỗi cung được tạm giải thích
như sau: mỗi cung, tùy theo danh hiệu, nói lên 1 lãnh vực của đời sống con
người: như cung Quan nói về nghề nghiệp, cung Tật nói về sức khỏe, cung Tài nói
về kinh tế. Nhưng, thật sự, mỗi cung đều
có ý nghĩa liên đới với các cung khác: như cung mệnh phải liên đới với
các cung Di, Quan, Tài, Phúc. Riêng cung Phúc hầu
như có ý nghĩa liên đới với bất cứ cung nào và ban cho các cung
khác cái hay, cái dở của cung Phúc. Vì vậy, người đoán tử vi không nên thu hẹp
địa hạt một cung trong các sao tọa thủ mà phải xét tất cả bối cảnh các cung hay
một số cung, mà phải tìm sự liên đới với các cung có quan hệ khác. Ví dụ như
khảo sát cung Phu không chỉ xem thêm cung Phúc, Di, Quan mà phải xem thêm Nô,
Mệnh, Thân. Không nên giới hạn việc giải đoán
trong một lãnh vực, người xem tử vi cũng không nên giới hạn việc giải
đoán trong thời gian. Ví dụ khi xem cung Tật, không phải các việc liên
hệ đến sức khỏe, bệnh tật, họa đều chất chứa trong các cung chiếu Tật. Trái
lại, mỗi năm có 2 cung Hạn, 1 cung Hạn của 10 năm và 1 cung Hạn một năm, cả hai
cùng ám chỉ tình trạng bệnh tật, sức khỏe của thời gian một năm. Thành thử, phải
lồng khung sự giải đoán trong thời gian ngắn và dài của tiểu đại hạn để
xem bất cứ việc gì. Nếu thiếu ý niệm linh động trong
lãnh vực và trong thời gian, người xem tử vi chắc chắn sẽ rơi vào phiến diện,
khẳng định thiếu sót, nghèo nàn, ít chính xác. Ngược lại, nếu biết linh động,
sự giải đoán sẽ toàn diện, phong phú, chính xác hơn. Sau khi đã thông ý niệm tiên quyết
đó, cần bước sang định nghĩa từ cung. 1)
Cung Phúc Đức Khoa tử vi vốn chịu ảnh hưởng của lý
thuyết Phật học, nên xem cung phúc đức như quan trọng nhất trong số các cung
và có hiệu lực chi phối rất mạnh mẽ đến sự hay dở của 11 cung khác. Khoa tử vi vốn duy thần, duy linh,
nên đặt căn bản suy luận tiên khởi trên các ý niệm nhân quả, luân hồi, di
truyền, nghiệp (karma) của mỗi người trong bối cảnh sinh hoạt của một gia
tộc, của một giòng họ, trong bối cảnh địa lý của âm phần tổ tiên.
Được xem như có hậu quả di truyền cho đến những đời con cháu. Các ý niệm trên
được gói ghém trong những danh từ tổng hợp là “phúc đức”. Vì tính cách huyền bí
và rộng rãi của ý niệm đó, nên danh từ Phúc đức rất khó hiểu. Theo thiển ý, danh từ Phúc đức có
thể hiểu trên hai khía cạnh: phạm vi và nội dung. a)
Phạm vi của Phúc đức Sự tranh chấp liên quan rất nhiều
đến phạm vi của danh từ phúc đức. - Có người cho Phúc đức bao hàm tình
trạng của cả một giòng họ. Quan niệm tổng quát này tuy có khả chấp, nhưng, chưa
ai qui định rõ ràng hơn khởi nguyên của giòng họ bắt đầu kể từ đời nào (có
người cho rằng phát nguyên từ đời ông nội) và sẽ kéo dài ảnh hưởng cho đến đời
nào (có người cho rằng sẽ kéo dài đến đời cháu). Nếu theo quan điểm này thì
phúc đức liên hệ đến 5 đời: ông, cha, mình, con, cháu. Lẽ dĩ nhiên, trong ánh sáng khoa học
hiện đại, và qua những thăng trầm lịch sử của các quốc gia, của các gia tộc ta
khó lòng chấp nhận rằng 5 đời trong 1 giòng họ lại có phúc đức truyền kiếp
giống nhau, mà thời gian có thể phủ trùm gần 100 năm. Nhưng, vì khoa Tử – Vi chấp nhận ý
niệm nhân quả của Phật giáo, nên mới quan niệm phạm vi Phúc đức quá rộng lớn
như vậy. Chính vì thế, nên có người cho rằng
chỉ nên giới hạn phạm vi đến tiểu gia đình tức là cha, mình và con (3 đời). - Phúc đức còn là hậu quả của âm phần
tổ tiên đối với mình và gia đình nhỏ của mình. Về điểm này, khoa Tử – Vi chịu
ảnh hưởng của khoa địa lý Trung Hoa, cho rằng mồ mả tổ tiên tùy theo vị trí,
hình sắc và thế đất sẽ có ảnh hưởng xa, gần, ít, nhiều đến sinh kế của con
cháu. Và riêng về âm phần, phạm vi của
Phúc đức có khi được các sách chú giải đến 4, 5 đời trước và đôi khi cả 6, 7
đời, liên hệ cả đến bàn hệ chứ không riêng gì trực hệ. Một quan niệm Phúc đức truyền kiếp
mơ hồ như thế chưa được tác giả nào giải thích rõ ràng. Hiện nay, thiên hạ ít
còn tin vào Phúc đức ông bà, thành thử vấn đề đặt ra là có nên vì sự thay đổi
niềm tin đó mà ta phải linh động đánh giá cung Phúc trong bối cảnh tín ngưỡng
nghèo nàn hiện thời? b)
Nội dung danh từ của Phúc đức Tổng các ý nghĩa suy diễn từ các sao
của cung Phúc của tác giả, có thể ấn định nội dung đầy đủ nhất của Phúc đức như
sau: 1)
Được mồ mả tổ tiên, nhất là trực hệ. Mồ mả ngày phải ở
lợi địa, thì con cháu mới phát đạt: đây có thể gọi là phúc mộ. 2)
Giòng họ phong túc: đó là quan niệm đại gia tộc của
nho học. Gia đình ít con được xem như kém phúc
tộc. 3)
Giòng họ phải ở gần nhau trong một
làng
càng hay. Sự ly tông để tha phương cầu thực cũng bị xem như bất lợi cho phúc
đức: đó là quan niệm phúc tụ. 4)
Giòng họ phải hưng vượng mãi về số lượng nhân khẩu lẫn tài lộc,
về con trai lẫn con gái, và mỗi người cũng phải hưng vượng suốt đời mới tốt: đó
là quan niệm phúc thịnh. 5)
Sự hưng thịnh phải hướng thiện mới gieo được nhân tốt, tạo được
quả tốt cho các đời sau: đó là quan niệm phúc
thiện. Như trên đã trình bày, ảnh hưởng của
cung Phúc rất rộng lớn, có thể chế giảm hay tăng trưởng hiệu lực của 2 cung số
khác. Một cung Phúc tốt chẳng hạn như có thể giúp tránh được nhiều tai họa,
bệnh tật, giảm được nhiều tật xấu, chế được bất lợi của cung Tài, Quan, Di,
Điền… nếu các cung này xấu. Ngoài ra Phúc đức cũng ảnh hưởng đến Đại Hạn và
Tiểu Hạn rất nhiều.
Lược trích cuốn "Tử vi tổng hợp" của Nguyễn Phát Lộc
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net)