Dân tộc ta vốn tôn sư trọng đạo, dưới chính thể nào cũng vậy. Vai trò
thầy giáo luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được
toàn thể xã hội công nhận. Nghề giáo vốn là nghề cao quí nhất. Nền
giáo dục thời phong kiến cũng như thời dân chủ đều thống nhất một
phương châm "tiên học lễ hậu học văn" "nhà trường gắn liền với gia
đình và xã hội"... Nhân tài phục vụ xã hội, điều hành bộ máy Nhà nước
đều được "ông thầy", tức là khuôn mẫu, đào tạo nên, "không thầy đố mày
làm nên". Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức đều thống nhất dựa vào chế độ
thi cử, có học vị, cấp bậc rõ ràng. Vì tất cả những lẽ trên, có người đặt vấn đề: Vậy đặt thầy cao hơn cha có quá đáng không? Cụ Thượng Niên về lễ tang vợ thầy : Nguyễn Khắc Niên
(1889-1954) người Sơn Hoà, Hương Sơn, Hà Tĩnh đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ
(tức Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi 1907 làm Thượng thư bộ Cải lương hương
chính triều Bảo Đại. Nguyễn Khắc Niên là học trò cụ Nguyễn Duy Dư
người Sơn Tiến, một người nổi tiếng hay chữ ở huyện Hương Sơn, đã
được hội Tư văn hàng huyện tôn xưng là "Hương Sơn tứ hổ". Nguyễn Khăc
Niên thụ giáo cụ Dư ở cách nhà mình trên 4 km. Đến kỳ thi Hương hai thầy
trò cùng lều chõng đi thi, học trò đậu cử nhân, được vào Huế thi Hội
đậu luôn Hoàng giáp, thầy chỉ đậu Tú tài. Theo chế độ thi cử thời
trước: Cử nhân mới được dự thi Hội, còn Tú tài thì phải 3 khoa Tú tài
mới được thi. Ba năm mới có một khoa, thầy Tú chưa kịp chờ để thi lại
khoa sau thì đã từ trần- 1909. Hơn 30 năm sau, bà Tú Dư mất, lúc đó
Nguyễn Khăc Niên đã lên đến chức Thượng thu trong triều. Nghe tin vợ
thầy học cũ mất, ông đánh xe từ Huế về Hà Tĩnh để phúng viếng. Nhà
cách sông và đường quốc lộ, Tri huyện tiếp điện đã lệnh cho Tổng lý
địa phương đem kiệu và võng lọng ra tận bờ sông đón rước cụ thượng về
quê lễ vợ thầy. Nhà ông bà Tú trên đỉnh đồi Sơn Trại, người trai tráng
leo lên cũng cảm thấy mệt, hơn nữa sỏi đá lởm chởm. Nhưng để tỏ lòng
cung kính nhớ ơn thầy, cụ thương Niên đã xuống cáng, đi chân đất có
hai người lính hầu dìu hai bên, lên tận nhà thầy gần đỉnh đồi . Tất
nhiên cụ Thượng thư đã đi chân đất thì từ tuần phủ tri huyện đến tổng
lý cũng phải tháo hia hài cắp nách mà leo lên. Người con trưởng cụ Tú
và một số gia nân khăn áo chỉnh tề đã xếp hàng đứng ở cổng. Mặc dầu
chỉ là dân thường ít hơn một vài tuổi, nhưng con trai cụ Tú cũng được Cụ
Thượng Niên vái chào rất cung kính (vì được coi là thế huynh).
Cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng mình, thầy giáo là người truyền
thụ kiến thức cho mình. Sở dĩ hiển đạt, thi thô được tài năng với đời
đều nhờ thầy. Ngày xưa, từ nhỏ đến khi đi thi đậu cử nhân, tiên sĩ
thường cũng chỉ học một thầy cùng lắm là vài ba thầy, chứ không như
ngày nay mỗi năm một lớp rồi mỗi môn một thầy. Ngày xưa có nhiều
trường hợp thầy trò cùng lều chóng đi thi nhưng học tài thi phận , trò
đậu thầy hỏng. Có những ông thầy đào tạo được nhiều ông Nghè, ông Cống
nhưng bản thân ông thầỳ lại chẳng đậu đạt gì, chẳng nhận quan tước gì,
có người thi đậu cũng không ra làm quan mà chỉ tiếp tục dạy học. Có
những thầy giáo đạo cao đức trọng được môn sinh nể trọng hơn cha. Thầy
Chu Văn An là người thầy tiêu biểu nhất được liệt thờ ở Văn Miếu.
Ngày xưa, thầy đồ dạy đỗ được một số học sinh đậu đạt cử
nhân, tiến sĩ thì tự nhiên vai vế trong xã hội được nâng lên rõ rệt,
quan tỉnh quan huyện cũng phải kính nể, chẳng những đối với thầy giáo
mà cả gia đình thầy. Quang Trung ba lần mời Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu
Tử) ra làm quân sư, chính là để thu phục nhân sĩ Bắc Hà, vì Nguyễn Thiếp
là thầy giáo của nhiều triều thần Lê Trịnh đương thời.
Ngành giáo dục tuy có chế độ thi hương, thi hội, thi đình
rất nghiêm rất chặt, song rất ít giáo chức rất ít trường công, ở cấp
huyện , cấp phủ chỉ có một vài huấn đạo giáo thụ ăn lương nhà nước,
hầu hết là các lớp tư thục. Một nhà khá giả trong vùng nuôi thầy cho
con ăn học , xóm làng chung quanh gửi ôn đến thụ giáo không phải nộp
học phí, chỉ đến ngày mồng 5 tháng 5 ngày Tết... cha mẹ học trò mới
đưa lễ tết đến tết thầy tuỳ tâm. Giàu có thì thúng gạo nếp, bộ quần
áo...Nghèo thì một cơi trầu một be rượu cũng xong.
Môn sinh của một thầy thường tổ chức nhau lại gọi là Hội
đồng môn, có trưởng tràng, giám tràng và một số cán tràng giúp việc
trưởng tràng. Con thầy mặc dầu ít tuổi hơn cũng được gọi là thế huynh.
Thầy nào có tiếng dạy giỏi, dạy nghiêm thì được nhiều sĩ tử đến theo
học , Hội đồng môn vận động các gia đình môn sinh đóng góp tiền của
tạo ruộng, tạo trâu bò rồi phân công cày cấy, đến mùa màng gặt tự gánh
về gia đình nhà thầy để gia đình thầy chi dụng. Khi thầy mất lại dùng
rụông đó lo tang ma cho thầy, cho vợ thầy và giỗ tết tế tự về sau.
Học trò để tang thầy cũng ba năm như tang cha mẹ, nhưng
không mặc tang phục, gọi là tâm tang tức là để tang trong lòng.
Học trò cũ mà thầy lại mất từ lâu, nay về lễ tang vợ thầy,
đây là chuyện thực mắt thấy tai nghe, kể lại dẫu có lỗi thời, nhưng
cũng hy vọng các bạn đọc chắt lọc được trong phong tục xưa chút hương vị
ngọt ngào chăng ?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net)