Vào dịp Tết Nguyên đán, từ Bắc chí Nam, nhà nào cũng đều có bày mâm ngũ
quả trên bàn thờ tổ tiên. Theo thuyết ngũ hành: Kim màu trắng, Mộc màu
xanh, Thủy màu đen, Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Mâm ngũ quả thường theo 5
sắc màu đó để phối trí các loại quả cho tương xứng. 5 màu tượng trưng
cho mong ước được ngũ phúc: phú (giàu có), quý (sang trọng), thọ (sống
lâu), khang (khỏe mạnh), ninh (bình yên).
Miền Bắc thường chưng 5
loại quả có 5 màu khác nhau như: chuối, táo màu xanh; bưởi (hoặc phật
thủ), cam, quýt màu vàng; hồng hoặc táo tây, ớt màu đỏ; roi, mận, đào
hoặc lê màu trắng; hồng xiêm ( tức sabôchê) hoặc nho đen, măng cụt, mận
màu đen. Ở miền Nam, mâm ngũ quả thường thấy các loại mãng cầu, dừa, đu
đủ, xoài, sung, dưa hấu, thơm…
Thường người ta chọn loại quả tươi tốt, có màu sắc đẹp và có ý nghĩa
tượng trưng cho mong ước của mình. Quả bưởi tròn tượng trưng sự viên
mãn, đầy đủ, nhiều phúc lộc; quả phật thủ tượng trưng cho sự che chở,
bình an; quả na, lựu, nhiều hạt ngụ ý sự đông con nhiều cháu; quả quất
tượng trưng cho người quân tử...
Tùy theo quan niệm của mỗi miền
mà có những kiêng kỵ khác nhau, dựa vào tên của vài loại quả, gọi là
cách tá âm. Ví dụ như có nơi người ta không chưng quả cam (cam chịu),
quả chuối (chúi: chúi đầu, chúi mũi; vất vả), tắc (bế tắc… Ở Nam bộ,
người ta lại thích dứa, thơm (thơm tho, thơm danh), sung (sung túc);
hoặc thể hiện sự mong ước đơn sơ bằng các loại như mãng cầu, dừa, đu đủ,
xoài (cầu vừa đủ xài); mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài
sung)…
12 loại trái cây thường được chọn dùng trong mâm ngũ quả ngày Tết còn có nhiều giá trị về mặt y học.
1. Mãng cầu (cầu)
Mãng
cầu gồm có mãng cầu xiêm và mãng cầu dai (na). Thịt quả trắng, mùi dễ
chịu, vị dịu, hơi ngọt, chua, có tính giải khát, bổ dưỡng.
Trong
100g phần ăn được của mãng cầu xiêm có chứa các chất sau: Nước 81g;
protid 1,70g; lipid 0,80g; glucid 12,00g; carbohydrat 1,10g; cellulose
1,80g; acid 0,90g; tro 0,70g. Cung cấp 64 calo. Ngoài ra, mãng cầu xiêm
còn chứa nhiều chất vitamin và các chất khoáng vi lượng; cung cấp cho cơ
thể nhiều chất dinh dưỡng, rất tốt cho người suy nhược cơ thể, ăn uống
kém.
Thịt quả mãng cầu xiêm nhiều nước, ít đường, nhiều acid, nên
có vị chua ngọt và mùi thơm rất đặc trưng. Người ta dùng thịt quả pha
thêm nước và đường hoặc sữa, xay làm nước sinh tố để giải khát, bổ mát
và chống hoại huyết. Đây là loại trái cây có ích cho người bệnh tiểu
đường và cao huyết áp. Mãng cầu xiêm cũng được dùng chế biến thành mứt
kẹo thơm ngon, rất được ưa chuộng.
Quả xanh phơi khô tán bột dùng
trị kiết lỵ và sốt rét. Lá dùng trị sốt rét với mục đích thường để chặn
cữ (lên cơn sốt rét) như sau: Lá mãng cầu xiêm 15 lá, đâm vắt lấy nước
cốt uống 1 lần, ngày uống 4 lần.
Mãng cầu dai, tức quả na, còn
gọi là mãng cầu ta (Annona squamosa L.), có thịt quả mềm, thơm, ngon,
ngọt. Trong 100g phần ăn được của quả na có chứa: Nước 82,5g; protid
1,6g; glucid 14,5g; cellulose 0,8g; tro 0,6g; các chất khoáng vi lượng
Ca 35mg; P 45mg; Fe 0,6mg; các vitamin B1 0,11mg; B2 0,10mg; PP 0,8mg; C
36mg; cung cấp 98 calo.
Theo đông y, thịt quả na có vị ngọt,
chua, tính ấm, tác dụng hạ khí, tiêu đàm. Thường dùng trong các trường
hợp kiết lỵ, tiết tinh, đái tháo, tiêu khát, ho có đàm vàng đặc. Quả
xanh dùng chữa lỵ và tiêu chảy. Lá có tác dụng sát khuẩn, tiêu viêm, sát
trùng, dùng chữa kiết lỵ ra máu.
2. Dừa (Vừa)
Dừa
được trồng rộng rãi nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các vùng ven
biển nhiệt đới. Theo Đông y, quả dừa gọi là da tử, có vị ngọt, tính
bình, không độc, ăn đỡ đói; tác dụng khử phong, ích khí, tiêu phù thũng,
trừ hoắc loạn, tâm phiền, giải nhiệt độc (Tuệ Tĩnh - Nam dược thần
hiệu).
Cùi dừa màu trắng đẹp, ăn giòn thơm, hương vị như sữa. Quả
càng già, hàm lượng chất dinh dưỡng càng nhiều. Ăn bổ dưỡng lại giúp
trừ được phong thấp. Nước dừa có vị ngọt, tính bình, tác dụng giảm tiêu
khát, khỏi thổ huyết, trừ say nắng, giúp đen râu tóc. Dùng uống giải
khát và bổ dưỡng. Nước dừa vô trùng được dùng làm dung dịch truyền tĩnh
mạch, trị tiêu chảy.
Nước dừa chứa nhiều chất dinh dưỡng, bao gồm
vitamin C, sắt, phospho, canxi, kali, magiê, natri, các chất khoáng
khác, lipid, protein, đường... Nước dừa là loại nước giải khát có giá
trị, tác dụng tăng cường khí lực, giải khát, giải nhiệt, làm tươi nhan
sắc. Rất tốt cho người bị cảm nắng, tiêu chảy, tiêu ra máu.
Người
ta ưa chuộng dừa vì nó chứa một số acid béo không thay thế trong quá
trình đồng hóa thức ăn, cố định men, tham gia dự trữ chất béo của cơ
thể. Dầu dừa hay bơ dừa tạo thành một nhũ tương rất mịn khi gặp mật và
dịch tụy nên dễ đồng hóa.
Nước cốt dừa là cùi dừa khô bào vụn,
vắt ép lấy nước. Trong nước cốt dừa có chất béo, acid amin, đường, acid
hữu cơ. Nước dừa và nước cốt dừa có chất kích thích tăng trưởng nên được
dùng để cấy mô.
Các món ăn như kho, nấu chè, bánh kẹo có pha
nước cốt dừa sẽ tăng hương vị ngọt béo, hấp dẫn khẩu vị. Người Nam Bộ
còn chế loại bánh tráng dừa làm bằng cùi dừa bào còn nước cốt và bột gạo
nếp. Bánh màu trắng ngà, dẻo mềm, thơm ngon, có thể ăn ngay không cần
nướng.
3. Đu đủ (Đủ)
Theo sách Dược thảo
bách khoa toàn thư, đu đủ được người Maya sử dụng làm thức ăn và làm
thuốc từ rất lâu đời. Người Trung Quốc thì xem đu đủ như “trái cây vua
của vùng Lĩnh Nam”, đặt tên cho đu đủ là Phiên mộc qua.
Ngày nay,
mọi người đều công nhận đu đủ là một loại trái cây có hương vị thơm
ngon, bổ dưỡng và có tác dụng trị liệu một số bệnh tật. Trong 100g phần
ăn được của đu đủ có chứa các chất dinh dưỡng sau (FAO, 1976): Nước
87,1g ; glucid 11,8g ; protein 0,5g ; lipid 0,1g ; tro 0,5g ; các chất
khoáng K 24mg, P 22mg, B1 0,03mg, C 71mg, cung cấp 45Kcalo.
Theo
đông y, đu đủ chín có vị ngọt, mát, tác dụng nhuận tràng, tiêu thực,
tiêu tích trệ, lợi trung tiện, lợi tiểu. Là một thức ăn bổ dưỡng, giúp
tiêu hóa protid, lipid, albumin rất hiệu quả.
Đu đủ xanh có vị
đắng, ngọt, tác dụng tiêu rất mạnh (dễ gây xót ruột khi dùng nhiều),
được dùng chữa rối loạn tiêu hóa do tỳ vị yếu, viêm dạ dày mãn tính,
viêm dạ dày - ruột non ở trẻ em. Ngoài ra, còn có tác dụng giúp cơ thể
phòng chống ung thư, sát trùng diệt khuẩn (theo Trung dược đại từ điển).
Trái
đu đủ xanh và các bộ phận khác của cây như thân, rễ, lá, đều có chứa
chất nhựa mủ. Trong nhựa mủ này có men papain có khả năng hòa tan một
khối lượng tơ huyết (fibrin) gấp 2.000 lần khối lượng của nó.
Men
papain của đu đủ có tác dụng như men pepsin của dạ dày và nhất là giống
men trypsin của tụy tạng trong việc tiêu hóa protid, lipid, hydrat
carbon trong môi trường hơi kiềm hay trung tính. Nếu sự phân tiết của
tụy tạng có trở ngại, gây ra một số rối loạn về tiêu hóa, thì có thể sử
dụng đu đủ chín nấu ăn để điều hòa. Ngoài ra, men papain còn có tác dụng
làm triệt tiêu progesteron, cho nên phụ nữ có thai không nên ăn đu đủ
xanh.
Hoa đu đủ đựng dùng trị ho trẻ em, ho gà, bằng cách hấp
với đường phèn: 30g hoa tươi hấp với 20g đường phèn (có thể nấu với ½
chén nước), chia làm 2 lần cho uống trước bữa ăn.
Nhựa mủ đu đủ
(Latex caricae papayae) được lấy từ trái xanh đem phơi khô, hoặc lấy từ
thân cây, có tác dụng làm sạch da, làm lành các vết thương, thúc đẩy quá
trình làm lành các ung nhọt cũng như các khối ung thư (Theo sách The
Encyclopedia of Medicinal plants).
Qua đó, ta thấy đu đủ có những lợi ích rất thiết thực :
-
Chứa nhiều caroten, khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành vitamin A, là
chất chống oxy hóa rất hiệu quả, giúp phòng chống bệnh tim mạch, lão
suy, ung thư.
- Giàu vitamin B, C, các chất khoáng, tác dụng bổ dưỡng, trợ tiêu hóa. Kết hợp với chuối + mật ong chống táo bón.
-
Bảo vệ da rất tốt (+ sữa tươi + đường). Làm mặt nạ (+ sữa tươi hoặc
yaourt), ngừa được mụn, vết nám da, chữa da khô. Đu đủ còn có công dụng
rất đặc biệt, nó có thể giúp vết thương hay vết mổ của bạn mau lành,
bằng cách đắp một miếng đu đủ lên vùng da bị tổn thương.
- Đu đủ xanh hầm móng giò heo là thức ăn lợi sữa, làm nộm với khô bò là thức ăn khoái khẩu, lợi tiêu hóa.
-
Bổ dưỡng Tỳ vị: Đu đủ chín 200g, sữa bò 250ml, nước chanh vắt 1 muỗng
canh, mật ong vừa đủ. Gọt vỏ đu đủ, xắt nhỏ, bỏ hột, cho vào máy xay
cùng với các nguyên liệu để xay nhuyễn, dùng uống trong ngày.
- Nước đu đủ, dứa giúp da trắng mịn, hồng hào :
Vật liệu: Đu đủ ¼ quả, dứa ¼ quả, bôm (táo tây) ½ quả, cam 2 quả, nước 50ml.
Cách
làm: Dứa cắt miếng nhỏ. Đu đủ gọt bỏ vỏ và gạt rồi cắt miếng nhỏ; bôm,
cam rửa sạch, cắt miếng bỏ hạt. Lấy các thứ trên cho vào máy xay sinh
tố, sau khi xay xong đổ vào ly, thêm nước vào quậy đều là có thể dùng.
4. Xoài (Xài)
Xoài
được coi là “vua trái cây”. Trong 100g phần ăn được của quả xoài chín
có chứa các chất sau : Nước 86,5g; protid 0,6g; lipid 0,3g; glucid
15,9g; tro 0,6g; các chất khoáng vi lượng Ca 10g; P 15g; Fe 0,3g; các
vitamin B1 0,06mg; C 36mg; beta-caroten 1880 microgam. Cung cấp 62 calo.
(FAO.1976)
Như vậy, xoài chín chứa nhiều chất bổ dưỡng. Một
miếng xoài 100g cung cấp 78% nhu cầu vitamin A mỗi ngày, 46% nhu cầu
vitamin C, ngoài ra còn có vitamin E.
Ăn xoài chín giúp tăng
cường sức đề kháng, chống viêm, phòng ngừa ung thư, giúp hạ cholesterol
máu, hạ huyết áp, phòng bệnh mạch vành, ngừa ung thư ruột kết (do làm
tăng nhu động ruột, chống táo bón). Tác dụng bổ não, có lợi cho người
làm việc trí óc. Đặc biệt, xoài rất tốt cho hoạt động của thanh đới,
chống khô cổ, khản tiếng (ca sĩ, phát thanh viên… nên dùng)
Xoài
xanh có nhiều vitamin C, nấu canh chua với các loại cá đồng (cá rô, cá
trê, cá lóc…) rất ngon lại có tác dụng giải nhiệt, chống mệt mỏi vào mùa
hè. Tuy vậy, xoài xanh có nhiều chất chát có thể gây táo bón, không nên
ăn lúc đói bụng. Ăn ít thì nhuận trường, ăn nhiều gây tiêu chảy. Sau
bữa ăn no, bị sốt, vết thương mưng mủ, đái tháo đường không nên ăn xoài
chín.
Tinh chất từ hạt xoài có thể giúp ngăn chặn nhiều loại vi
khuẩn có hại, trong đó có listeria. Listeria là loại vi khuẩn có trong
thực phẩm, nhất là các loại thịt đóng hộp, đặc biệt nguy hiểm đối với
phụ nữ có thai, người già, trẻ sơ sinh và người có hệ miễn dịch yếu.
Theo các nhà nghiên cứu, người ta có thể tận dụng hạt xoài để chế biến
một loại chất bảo quản thực phẩm tự nhiên chống nhiễm khuẩn listeria.
Theo
Đông y, quả xoài vị ngọt, chua, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt,
kiện tỳ, tiêu trệ, chỉ thổ, giải khát, lợi niệu, trị ho, hoại huyết,
tiêu hóa kém, phòng ngừa ung thư đại tràng và bệnh do thiếu chất xơ.
Hạt
xoài có vị chua, chát, tính bình, dùng trị giun, kiết lỵ, tiêu chảy,
giúp giảm đau, trị miệng khát họng khô, tiểu tiện không thông.
Vỏ trái xoài chín nấu thành cao lỏng, trị được bệnh ho ra máu.
Khi ăn xoài, cần lưu ý những điều sau đây:
- Tuy thịt quả xoài có tác dụng lợi tiểu, chữa hoại huyết, nhưng nếu ăn nhiều sẽ bị nóng, dễ sinh mụn nhọt, chảy ghèn ở mắt.
- Không nên ăn xoài sau khi dùng các thức ăn có nhiều gia vị cay, nóng như hành, tỏi, tiêu, gừng, ớt…
-
Cách ăn xoài chín an toàn là xắt nhỏ, làm nhuyễn, không để cả lát to,
không nhai dối, nuốt chửng (chú ý đối với trẻ em và người già răng yếu).
Nên ăn xoài chín đến độ có thể bóc vỏ mà không cần dùng dao gọt vỏ.
- Tránh nhựa mủ ở vỏ, mủ xoài có chất độc gây nôn mửa, tiêu chảy, viêm da.
Sau đây là cách chế nước sinh tố xoài làm đẹp da:
Nguyên liệu: Xoài chín ½ quả, chanh ½ quả, bưởi ½ quả, mật ong ½ muỗng nhỏ, sữa chua ½ ly, nước đá một ít.
Cách làm: Tất cả cho vào máy xay sinh tố rồi ăn sau bữa ăn 2-3 giờ.
Làm săn da mặt bằng cách: Lá xoài tươi 50g, rửa thật sạch, giã nát, đắp mặt trong 20 phút rồi rửa sạch.
5. Sung (Sung túc)
Sung
còn gọi là vô hoa quả, thiên sinh tử, ánh nhật quả, văn tiên quả, phẩm
tiên quả, nãi tương quả, mật quả, thường mọc hoang ở những nơi ẩm ướt và
cũng được trồng quanh bờ ao hoặc ven sông. Người ta dùng quả, lá sung
làm thực phẩm và dùng cả nhựa, lá, vỏ cây để làm thuốc.
Trong
100g quả sung có chứa các chất sau: protein 1g, chất béo 0.4g, đường
12.6g, Ca 49mg, P 23mg, Fe 0.4mg, caroten 0.05mg, dẫn xuất không protein
12.3g, khoáng toàn phần 3.1g.
Quả sung thường dùng muối ăn như
cà muối, luộc ăn với nước chấm hoặc kho. Lá sung non có thể ăn sống như
rau, lộc sung dùng gói nem.
Theo đông y, quả sung có vị ngọt, hơi
chát, tính mát, tác dụng thông huyết, lợi tiểu, chỉ thống, tiêu đàm,
tiêu thủng, tiêu viêm, sát trùng, bổ huyết. Quả còn xanh dùng cầm tiêu
chảy. Quả sung và lá non giúp lợi sữa cho sản phụ.
Nhựa mủ dùng
bôi ngoài chữa các chứng sang độc, chốc lở, đinh nhọt, bỏng, các loại
ghẻ. Cành lá và vỏ cây sung dùng chữa phong thấp, sốt rét, sản phụ ít
sữa. Liều dùng 10-20g, sắc uống.
Trong sách Nam dược thần hiệu,
Tuệ Tĩnh đã dùng nhựa sung chữa các loại đinh nhọt và dùng lá sung non
chữa trẻ em bị lở ghẻ. Trong sách Bách gia trân tàng, Hải Thượng Lãn Ông
dùng lá sung tật nấu nước cho uống và xông rửa mặt chữa trên mặt bị nổi
từng cục u nhỏ sưng đỏ.
Ở Ấn Độ, rễ sung được dùng chữa lỵ, nhựa
rễ cây dùng chữa tiêu khát (đái tháo đường); lá sung sấy khô, tán bột,
trộn với mật ong chữa bệnh túi mật; quả dùng chữa rong kinh, khạc ra
máu; nhựa sung dùng chữa bệnh trĩ và tiêu chảy.
Y học hiện đại
cho rằng quả sung có tác dụng nhuận tràng, hạ huyết áp và phòng chống
ung thư. Ngày nay, cây sung còn được trồng trong bồn, chậu non bộ làm
cảnh, rất được ưa chuộng.
6. Dứa - thơm (Thơm tho, Đa phúc lộc)
Quả
dứa có nhiều nước, vị ngọt pha chua rất ngon, mùi thơm đặc biệt, là một
trong các thứ trái cây tươi được nhiều người ưa chuộng. Quả dứa có
nhiều mắt nên được tượng trưng cho đa lộc, đa phúc.
Theo Đông y,
dứa có vị ngọt chát, tính bình, có tác dụng giải khát, giải nhiệt, lợi
tiêu hóa, ngừng tả. Men dứa giúp dạ dày phân giải protein, làm thức ăn
dễ tiêu. Sau khi ăn nhiều thịt, mỡ, ăn dứa rất có lợi. Ngoài ra, chất
đường, muối và men trong dứa còn có tác dụng lợi tiểu, chữa viêm thận,
cao huyết áp, phù thũng. Đối với bệnh viêm phế quản, ho, nó cũng có tác
dụng điều trị hỗ trợ.
Tuy nhiên, có một số người sau khi ăn dứa
xuất hiện hiện tượng dị ứng. Thường sau 15 phút hoặc 1 giờ, bệnh nhân
thấy đau bụng, buồn nôn, đi lỏng, đồng thời có các biểu hiện mẫn cảm như
đau đầu, chóng mặt, mẩn đỏ da, ngứa toàn thân, tay chân và lưỡi cứng
đờ, nghiêm trọng hơn có thể ngất đột ngột. Do đó, những người bị dị ứng
dứa không được ăn.
Trước khi ăn, có thể ngâm dứa trong nước muối
để một phần acid hữu cơ bị phân giải, làm giảm nguy cơ ngộ độc dứa. Dứa
sau khi xát muối ăn đậm đà, ngọt ngào hơn.
- Nước ép dứa:
Mỗi
ngày, bạn hãy uống một ly nước ép dứa để ngừa ung thư. Nước dứa có khả
năng kích thích hệ miễn dịch tấn công tế bào bệnh; kìm hãm khả năng di
căn của các loại ung thư vú, phổi, đại tràng, buồng trứng và da. Không
ăn hoặc uống nước ép dứa khi bụng đói.
Cũng giống đu đủ, dứa rất
hữu ích trong việc làm mềm da, chứa ezym đặc biệt có tác dụng tẩy tế bào
chết, đặc biệt khi thoa hoặc ngâm nước ép dứa ở những vùng da đầu gối,
khuỷu tay, gót chân, v.v...
7. Hồng (Hồng hào, Tươi tốt)
Cây
hồng còn gọi là hồng thị, thị đinh, quân thiên tử, cậy… Trong quả hồng
tươi có chứa: 88-90% nước; 0,7-0,9% protid; 0,1% lipid; 6,2-8,6% glucid;
10 mg% Ca; 19 mg% P; 0,2 mg% Fe; 0,16 mg% caroten; 16mg% vitamin C; 0,3
mg% vitamin P…
Tai hồng là phần đài còn đính vào quả khô, được dùng làm thuốc với tên thị đế (Calyx Kaki).
Trong
sách Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh viết như sau: “Hồng thị là quả hồng,
vị ngọt hơi chát, tính hàn lành, nối liền khí kinh mạch, làm mát dạ dày,
nhuận trong miệng, hòa trong ruột, thông được tai mũi. Khi uống rượu
thì không nên ăn hồng vì dễ say hoặc sinh ra đau tim".
Quả hồng
khô (mứt hồng) vị ngọt, tính bình, không độc, nhuận phế, nhuận tâm, hòa
vị, tiêu đàm, giáng hỏa, hỏa huyết. Có tên là bạch thị hoặc thị bánh”.
Vị
thuốc thị đế có vị đắng, tính ôn, vào kinh vị, tác dụng ôn trung, giáng
khí. Thường dùng chữa nấc, đầy bụng, nôn ói, ợ hơi. Ngày dùng 8 – 16g
sắc uống.
Ngày nay ở Trung Quốc, người ta còn dùng thị tất
(Succus Kaki Siccatis) là nước ép từ quả hồng chưa chín, phơi hay sấy
khô, để chữa cao huyết áp, cầm máu, trĩ.
Vị thuốc thị sương
(Saccaharum Kaki) là chất đường trong quả hồng chảy ra khi người ta ép
để làm mứt, cho vào nồi đun lửa nhẹ đến khi cô lại thành châu thì đổ ra
khuôn, phơi hoặc sấy nhẹ cho khô se, cắt thành từng miếng rồi phơi sấy
cho khô hẳn. Thị sương dùng chữa ho, viêm họng khô rát.
Ngày nay, người ta còn dùng quả hồng chữa bệnh theo những cách sau :
- Hồng khô + mộc nhĩ đen để chữa táo bón, trĩ ra máu.
- Hồng khô sấy dòn, tán bột chữa đường tiêu hóa sưng đau.
- Hồng khô + trà + đường phèn chữa ho đàm, ho ra máu.
- Hồng khô + váng sữa + mật ong chữa tỳ vị yếu, ăn uống kém.
- Nước ép hồng tươi + sữa tươi hoặc nước cơm rất tốt cho người cao huyết áp.
Ngoài
ra, người ta còn dùng lá hồng 10g + trà 6g, sắc uống hàng ngày để chữa
cao huyết áp, ngừa xơ vữa động mạch. Vỏ quả hồng phơi khô 50g đốt tồn
tính, tán bột mịn, trộn với dầu mè bôi chữa viêm da lở loét.
Những người bị huyết áp thấp không nên ăn hồng.
8. Dưa hấu (Tốt đẹp, viên mãn, trung thực)
Dưa hấu có ruột đỏ (may mắn), vỏ xanh (thanh xuân), hạt đen (duyên dáng), lớp cùi vỏ trắng (thanh khiết, trung thực).
Trong
dưa hấu có chứa nhiều chất dinh dưỡng giá trị như citrulin (0,17% của
dịch quả), caroten, lycopen, manitol, vitamin A, vitamin C, vitamin B, ,
PP, acid folic…các chất khoáng vi lượng (Fe, P, Ca, Mg…), rất giàu chất
pectin, kali (116mg%)… Hạt dưa hấu có chứa dầu (20-40%).
Theo
đông y, thịt quả có vị ngọt nhạt, tính hàn, tác dụng giải khát, giải say
nắng, trừ phiền nhiệt, hạ khí, lợi tiểu, sinh tân dịch. Vỏ quả dưa hấu
có vị ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải thử độc, chỉ khát, lợi
tiểu. Hạt dưa có vị ngọt, tính hàn, tác dụng hạ nhiệt, hạ khí, lợi tiểu.
Ngày
nay, người ta dùng quả dưa hấu trong trường hợp cao huyết áp, nóng ở
vùng bàng quang, tiểu buốt, viêm thận, phù thũng, vàng da, đái tháo
đường, say rượu, cảm sốt do thử nhiệt, phiền khát, chữa lỵ ra máu và
ngậm với muối nuốt nước chữa viêm họng. Ngày uống 2-3 chén nước ép dưa
hấu.
Người Trung Quốc cho rằng nếu vào mùa hè, mỗi ngày ăn được 3
miếng dưa hấu thì chẳng cần gì đến thuốc thang. Tuy nhiên, những người
thận suy đi tiểu nhiều, người tỳ vị hư hàn, bụng lạnh, dễ tiêu chảy, hay
buồn nôn thì không nên ăn dưa hấu.
Trường hợp dùng dưa hấu để
trị liệu thì không được ướp lạnh, chỉ dùng tươi mới tốt. Dưa hấu là thức
ăn rất tốt cho người đái tháo đường, mập phì và người cao tuổi. Khi bổ
ra thì phải ăn ngay, không nên để lâu vì dễ nhiễm trùng, ăn vào đau bụng
(các cụ ngày xưa cho là dưa bị hở nên có gió nhập vào).
Tuy dưa hấu là thứ giải khát tốt nhưng không nên ăn quá nhiều trong một lần, nhất là đối với những người tì vị hư hàn.
Người
ta còn nghiền thịt dưa hấu thành bột nhão làm kem đắp lên mặt để dưỡng
da, an toàn, không bị dị ứng, ngừa nám da, khô da. Mỗi tuần làm khoảng
2-3 lần, đắp mặt nạ dưa hấu chừng 15-20 phút rồi rửa sạch.
Vỏ quả
dùng giải say nắng, chữa sốt cao, khát nước, đi tiểu ít, tiểu lắt nhắt,
phù thũng, miệng lưỡi sưng lở. Có thể dùng tới 40g vỏ quả sắc với 500ml
nước sôi uống thay trà, hoặc dùng vỏ quả khô đốt ra than, tán bột ngậm
chữa miệng lưỡi sưng lở.
Hạt dưa hấu dùng chữa đau lưng, trị giun
sán, phụ nữ hành kinh quá nhiều. Ngày dùng 12-16g sắc uống. Ngoài ra,
hạt dưa hấu còn được người Trung Quốc dùng để mát phổi, tan đàm, nhuận
trường, lợi tiêu hóa.
Rễ và lá dưa hấu dùng để chữa tiêu chảy, kiết lỵ vào mùa hè.
Lớp
cùi vỏ trắng (nhiều citrulline hơn thịt quả), có tác dụng làm lành vết
thương, lợi tiểu, giải khát, tăng cường sinh lực. Thường dùng làm rau
trộn, xào thịt, làm nhân bánh.Cùi trắng của dưa hấu xắt lát mỏng rồi
ngâm dấm để làm dưa chua, ăn khai vị rất ngon miệng, thích hợp vào mùa
hè.
9. Chuối (Bình an, đa phúc lộc)
Quả chuối còn xanh chứa 10% tinh bột và 6.53% chất tanin.
Quả
chuối chín có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng. Trong 100g chuối chín có
chứa: glucid 26.1g, protein 1.2g, lipid 0.3g, tro 0.8g, Ca 12mg, P 32mg,
Fe 0.8mg, các vitamin A (beta caroten) 225 microgam, B1 0.03mg, C 14mg.
Ngoài ra còn có Mg, Na, S, Zn… Xét về mặt dinh dưỡng, chuối có giá trị
hơn cả khoai tây và tương đương với thịt. 100g chuối cung cấp cho cơ thể
100 calo và dễ tiêu hoá.
Quả chuối chín có tác dụng nhuận
trường, chống scorbut và thúc đẩy sự lên da non của các thương tổn trong
ruột, trong viêm ruột kết có loét.
Khi mới bị táo bón, chỉ cần
ăn liền 3-4 quả chuối tiêu sau bữa cơm chiều, sáng hôm sau sẽ dễ đi cầu.
Nếu bị táo bón lâu ngày thì nên dùng quả chuối mật mốc (chuối lá) thật
chín, đem nướng đến khi cháy gần hết vỏ, lấy ra bóc ăn, khi chuối còn
nóng, sau 30-60 phút sẽ thông đại tiện. Trường hợp phân bị vón quá
nhiều, thì sau 20 phút ăn tiếp một quả nữa rồi uống thêm một cốc nước
muối pha loãng.
Chuối chín là thực phẩm dinh dưỡng rất tốt cho
mọi người, từ trẻ đến già, từ lao động trí óc đến lao động chân tay. Nó
giúp ích cho hệ xương, cho sự sinh trưởng cân bằng hệ thần kinh. Người
ta sử dụng chuối để trị tiêu chảy, kiết lỵ, chống rối loạn ruột và dạ
dày, chữa viêm ruột. Chuối được coi là một loại trái cây lý tưởng cho
những vận động viên, nhất là những vận động viên thể hình.
Theo
các nhà khoa học của Đại học John Hopkins (Mỹ) thì chuối là loại thuốc
hạ huyết áp tốt nhất cho những người nghèo. Các bệnh nhân cao huyết áp
ăn mỗi ngày 2-3 quả chuối, liên tục trong một tuần có thể giảm trị số
huyết áp khoảng 10%.
Bột của quả chuối xanh có tác dụng chữa loét
dạ dày có hiệu quả. Cách chế bột chuối như sau : Phơi quả chuối xanh
trong im (phơi âm can) hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp, sau đó tán bột.
Ngày uống 2 lần, mỗi lần một muỗng canh bột chuối, hoà với nước ấm, uống
lúc không no không đói quá.
Người ta còn dùng quả chuối xanh non
để chữa hắc lào mới phát: Trước tiên, ta rửa sạch chổ lở ngứa bắng nước
ấm, gãi cho trợt da ra, lau khô rồi lấy quả chuối vừa bẻ trên buồng ra,
cắt dần từng lát, cho nhựa chuối tiết ra mà chấm, bôi, xát vào chỗ đau.
Làm 4-5 lần sẽ khỏi.
Hoa chuối (ba tiêu hoa) có tính ấm, vị chua
mặn, tác dụng làm ấm dạ dày, tan đàm, làm mềm u nhọt, thông kinh. Người
ta dùng hoa chuối để làm thực phẩm (gỏi, rau độn trong dĩa rau xanh của
bún, lẩu…). Món hoa chuối xắt nhỏ, luộc chín, trộn với muối mè hoặc đậu
phụng rất tốt cho phụ nữ ít sữa sau khi sinh và người già bị táo bón.
Lá
chuối được dùng làm thuốc chữa một số bệnh ngoài da. Dùng lá chuối rửa
thật sạch, nghiền nát rồi trộn với nước gừng tươi để đắp chữa nhọt độc
mới phát. Lấy lá chuối nghiền nát, trộn với lòng trắng trứng gà hoặc dầu
mè để chữa các vết bỏng lửa, bỏng nước sôi. Nước của thân cây chuối
hoặc củ rễ chuối được dùng uống trị sưng tấy, làm thuốc giải nhiệt, chữa
nóng quá phát cuồng. Dùng ngoài rửa thật sạch, giã nát đắp vào chỗ đau,
nhọt độc sưng nhức.
10. Lựu (Đa phúc, đa lộc)
Quả
lựu có nhiều hạt nên được tượng trưng cho sự phồn thịnh, đa phúc, đa
lộc. Ở Việt Nam, lựu được trồng khắp nơi để làm cảnh, lấy quả ăn và lấy
vỏ quả, vỏ rễ, vỏ thân, hoa, thịt quả để làm thuốc.
Đông y dùng
các bộ phận của cây lựu làm thuốc từ rất lâu đời. Theo sách Nam dược
thần hiệu của Tuệ Tĩnh, quả lựu có vị ngọt, chua, chát, tính ấm, hơi
độc, tác dụng làm nhuận được họng bị khô náo, trừ được lao. Rễ dùng sát
trùng rất tốt và trị được huyết lậu. Tuy nhiên nếu ăn nhiều quả lựu sẽ
bị hại phổi, tổn răng.
Ngày nay, người ta biết rằng nước quả lựu
giàu chất chống ôxy hóa polyphenol, vitamin B1, B2, vitamin C, Ca, Na và
P, bảo vệ cơ thể khỏi các gốc tự do gây lão hóa, các bệnh tim mạch,
bệnh Azheimer và cả ung thư. Những người bị huyết áp cao, uống 50ml nước
quả lựu mỗi ngày trong 2 tuần liên tục có thể hạ được 5% mức huyết áp.
Nước lựu có tác dụng tăng cholesterol tốt HDL, giảm cholesterol xấu LHD
với tỉ lệ là 20%, giúp làm giảm quá trình hình thành các mảng bám trong
các động mạch.
Ngoài ra, nước lựu còn có tác dụng khử trùng và
giúp phụ nữ đối phó với các triệu chứng của thời mãn kinh. làm giảm quá
trình hình thành các mảng bám trong các động mạch. Dầu hạt lựu có khả
năng ngăn ngừa sự hình thành tế bào ung thư da nhờ khả năng làm mau liền
da trong trường hợp da bị thương tổn
Trong dân gian, người ta
dùng thịt quả để trợ tiêu hóa, trợ tim. Dịch quả tươi giúp hạ nhiệt, làm
mát. Hạt giúp tiêu hóa tốt hơn. Hoa dùng chữa viêm tai, đề phòng chảy
mủ tai.
Vỏ quả cây lựu có vị chua, chát, tính ấm, tác dụng sáp
trường chỉ tả, chỉ huyết khu trùng. Thường dùng chữa tiêu chảy, lỵ ra
máu, tiểu ra máu, băng huyết, bạch đới, thoát giang, đau bụng giun. Ngày
dùng 15-30g dạng thuốc sắc, thường phối hợp với các chất thơm cho dễ
uống.
Vỏ thân và vỏ rễ có vị đắng, chát, tính ấm, có độc, tác
dụng sát trùng, trừ sán. Thường dùng trị giun, đặc biệt có hiệu quả đối
với sán xơ mít ở người và đối với cả sán ở súc vật nuôi trong nhà. Ngày
dùng 20-60g dạng thuốc sắc. Ngoài ra, nước sắc vỏ rễ và vỏ thân còn dùng
làm thuốc ngậm chữa đau răng.
Cần lưu ý là khi dùng vỏ quả khô,
vỏ thân, vỏ rễ khô thì thuốc phải được bảo quản nơi khô ráo, không để
lâu quá 2 năm. Những người thể trạng hư yếu, phụ nữ có thai và trẻ em
không nên dùng vì thuốc có độc.
11. Quất (Sung túc, đa lộc)
Quả
quất rất giàu chất pectin, chứa vitamin C với hàm lượng 0,13-0,24 mg %,
dịch quả có đường, acid hữu cơ nên có vị chua, hơi ngọt. Trong vỏ quả,
lá tươi và chồi có tinh dầu 0,21%.
Theo Đông y, quất có vị chua,
hơi ngọt, tính bình, không độc. Dùng chữa gan uất kết, dạ dày yếu, tiêu
hóa kém, thực tích, chứng ách nghịch, ho, viêm họng, đàm tích, ẩu thổ,
tiêu khát, trừ uế khí, giải độc rượu.
Người ta cất giữ quả quất
lâu năm bằng cách làm quất muối như sau: Rửa quả quất thật sạch, để ráo
nước, xếp vào hũ sành hoặc hũ thủy tinh, cứ 1 lớp quất xen với 1 lớp
muối ăn, rồi đem phơi nắng. Thời gian cất giữ càng lâu, công hiệu càng
tăng. Khi sử dụng, lấy 5-10 quả quất muối nấu nước uống, hoặc đâm nát
ra, chế nước sôi để uống. Trị ho đàm, khô cổ, nặng ngực sau khi ăn, đàm
vướng trong cổ không khạc ra được. Nếu dùng giải khát bổ phế thì lấy 1-3
quả đâm nát, hòa với nước đường hoặc nước pha mật ong để uống.
Người ta thường chế mứt kim quất để ăn, vừa bổ dưỡng lại trị được ho đàm, tăng cường tiêu hóa, chữa các chứng ách nghịch.
Quả
quất ngâm rượu uống chữa tì vị yếu (hư hàn), can khí uất kết, trừ đàm
tích và ẩu thổ. Liều dùng 30-50ml một ngày, uống trước bữa ăn. Xirô quất
dùng giải khát, bổ dưỡng, trợ tiêu hóa.
Ngoài ra quất cũng được
dùng làm thuốc chữa ho trẻ em theo cách sau: Quả quất chín 10g, hoa hồng
trắng 10g, hạt chanh 10g, cho vào bát cùng với đường phèn hoặc mật ong,
đem chưng cách thủy hoặc hấp trong nồi cơm 15-20 phút, lấy ra nghiền
nát cho uống.
12. Bưởi (Phúc lộc, viên mãn)
Bưởi
là loại trái cây rất được ưa chuộng của người Việt Nam. Vào những ngày
lễ tết, những quả bưởi tươi thắm luôn được bày trên mâm ngũ quả của các
gia đình.
Về mặt dinh dưỡng, trong 100g phần ăn được của bưởi có
chứa các chất sau: Nước 80g; protid 0,6g; glucid 9g; lipid 0,1g; các
khoáng chất chất: Ca 23mg; P 18mg; Fe 0,5mg; Cellulose (chất xơ) 0,7mg,
các vitamin: B1 0,04mg; B2 0,02mg; PP 0,3mg; C 95mg. Cung cấp cho cơ thể
30 calo.
Theo y học hiện đại, nước bưởi giúp hạ đường huyết.
Kiểm chứng thực tế cho thấy ăn bưởi đều đặn sẽ giúp giảm cân và phòng
chống được tiểu đường. Những người bị bệnh cao huyết áp, tiểu đường,
dùng dịch quả bưởi rất thích hợp.
Những hoạt chất khác tìm thấy
trong bưởi giúp sản xuất chất xúc tác enzymes, ngăn ngừa ung thư; và một
chất khác, chất bioflavonoids, giúp ngăn trở các hoạt động của các
hormon phát triển bướu u.
Ngày nay, các nhà khoa học còn ghi nhận
quả bưởi có tác dụng chống viêm, ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu và
cải thiện độ bền vùng thành mạch. Do đó, bưởi có tác dụng làm giảm nguy
cơ suy tim, làm vết thương mau lành, giảm đau nhức các khớp, phòng ngừa
ung thư dạ dày, ung thư tiền liệt tuyến, chống hoại huyết.
Ăn bưởi thường xuyên cũng sẽ rất có ích cho người bị bệnh thấp khớp, viêm khớp, lupus, hoại huyết, kinh phong.
Theo
đông y, tép bưởi có vị ngọt, chua, tính mát, tác dụng tiêu thực, lợi
tiêu hoá, tiêu đàm, lợi tiểu, bổ dưỡng cơ thể. Thích hợp với người ăn
uống kém, ăn uống không tiêu, đi tiểu ít, dễ xuất huyết, phụ nữ có thai
bị nôn nghén, người bị tiểu đường, mập phì, cao huyết áp, đau nhức các
khớp, ngộ độc rượu, tinh thần không thư thái.
Y học dùng nhiều bộ phận của bưởi để làm thuốc như vỏ quả, vỏ hạt, hạt, lá, hoa, dịch ép nước bưởi.
Theo
đông y, vỏ quả bưởi có vị đắng, cay, tính không độc, trừ đàm, táo thấp,
trị trường phong hạ huyết, tiêu thủng, giảm đau, hòa huyết. Bỏ lớp
trắng, chỉ lấy lớp vỏ vàng, sao lên mà dùng. Người Trung Quốc dùng vỏ
quả bưởi để trợ tiêu hóa, làm long đàm, trị ho. Ngày dùng 4-12g sắc
uống.
Tinh dầu của vỏ bưởi giúp kháng viêm, làm giãn mạch, có tác
dụng hỗ trợ tiêu hóa và trị cảm cúm, thường được dùng trong liệu pháp
nấu nồi xông giải cảm.Lấy vỏ bưởi tươi, gừng tươi giã nát, đắp vào chỗ
khớp xương đau trị được bệnh đau xương khớp. Vỏ bưởi ướp đường ăn chữa
say xe, say sóng, trẻ em đầy bụng.
Đặc biệt trong cùi trắng của
quả bưởi có tác dụng làm giảm cholesterol - huyết, bảo vệ tính bền của
mạch máu, phòng chống cao huyết áp và tai biến mạch máu não.
- Lá
bưởi có vị đắng, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng tán hàn, khai uất,
thông kinh lạc, giải cảm, trừ đàm, tiêu thực, hoạt huyết, tiêu sưng,
tiêu viêm.
- Hạt bưởi có vị đắng, tính ấm, chứa chất béo, có tác
dụng trị đau thoát vị bẹn, sa đì. Hạt bưởi giã nát sắc uống dùng chữa sa
ruột, sa nang.
- Vỏ hạt bưởi có nhiều pectin, được dùng làm thuốc cầm máu.
- Hoa bưởi dùng làm hương liệu gội đầu hoặc nấu chè rất thơm ngon.
Toàn bộ quả bưởi (cả vỏ lẫn múi) xắt nhỏ sắc uống có thể chữa mẩn ngứa da do dị ứng.
Bưởi
đào hay bưởi hồng chứa nhiếu chất beta-carotene, lycopen.Loại bưởi này
cũng chứa nhiều chất xơ và ít calories, nhiều chất bioflavonoids và một
vài hóa chất khác có tác dụng giúp ngăn ngừa bệnh ung thư và tim mạch.
Bưởi hồng còn có khả năng làm giảm mức độ mắc bệnh ung thư tuyến tiền
liệt nơi đàn ông.
Lương y Đinh Công Bảy
Tổng Thư ký Hội Dược liệu TP HCM
Trich tu: vnexpress.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net)