Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà
Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế. Sau khi kết
nghĩa anh em tại vườn đào, Trương Phi và Quan Vũ đều giết chết vợ của
mình rồi bỏ theo Lưu Bị mong dựng nghiệp lớn.
Câu nói nổi tiếng: “Bạn bè như chân
tay, vợ con như quần áo” chính là câu nói từ miệng của Lưu Bị mà ra. Có
thể nói, trong mắt Lưu Bị, vợ con chẳng qua là một thứ đồ vật tùy lúc có
thể mặc vào cởi ra mà thôi… Lưu Bị tự là Huyền Đức, người quận Trác,
nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, hậu duệ một nhánh xa của hoàng tộc nhà
Đông Hán. Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc,
sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế.
Từ nhỏ, nhà nghèo, sau khi lớn lên gia
nhập quân đội triều đình trấn áp khởi nghĩa Khăn vàng. Sau đó, nhờ sự
giúp sức của Gia Cát Lượng, Lưu Bị hợp lực cùng Tôn Quyền đánh bại quân
Tào Tháo ở Xích Bích, chiếm được Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung. Năm
221, Bị xưng đế, định đô ở Thành Đô. Một năm sau đó, trong trận chiến
Ngô Thục, quân Bị thua trận, không lâu sau đó, Bị chết.
Lưu Bị là người huyện Trác, quận Trác,
tự xưng là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con của Hán Cảnh
đế. Lưu Bị liên tục nói về mình như vậy, cứ gặp người là nói vậy, sử
sách cũng cứ như vậy mà ghi về Bị. Còn về chuyện có thực hay không thì
chẳng có ai biết. Những người ưa thích “Tam Quốc diễn nghĩa” đều nghe
rất quen câu này của Lưu Bị: “Tại hạ Lưu Bị, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh
vương Lưu Thắng”. Thực tế, chẳng có ai muốn hỏi Lưu Bị là hậu duệ, con
cháu của ai, vì vậy, cách nói đó của Lưu Bị quả thực rất thừa và vô
duyên.
Tuy nhiên, đi đâu Lưu Bị cũng chỉ có
một cách nói như vậy. Điều này chứng tỏ, xuất thân nghèo khổ đã khiến
Lưu Bị phải đau đầu rất nhiều. Lưu Bị từ nhỏ đã mồ côi cha, cùng mẹ đan
chiếu bán để sống qua ngày. Bên cạnh căn lều cỏ của mẹ con Lưu Bị ở có
một cây dâu, nhìn từ xa trông giống như một chiếc xe có lọng che.
Những người khách đi qua đây nhìn thấy
hình dáng của cái cây này đều lấy làm kỳ lạ, nói rằng ở đây hẳn có quý
nhân. Khi Lưu Bị chơi với chúng bạn ở dưới gốc cây nói: “Sau này ta sẽ
đi một chiếc xe sang trọng như vậy”.
Thời bấy giờ, xe có lọng là loại xe
dành cho hoàng đế, vì vậy, chú của Lưu Bị là Lưu Tử Kính mới quát Lưu Bị
rằng: “Mày ăn nói lung tung như vậy định hại chết cả gia đình chúng ta
hay sao?”. Từ nhỏ, Lưu Bị đã không thích đọc sách, học hành cả ngày chỉ
thích chơi với chó, ngựa, đàn hát và mặc quần áo đẹp.
Lưu Bị cao 7 thước 5 tấc (hơn 2 mét),
tay dài quá đầu gối, ngoảnh đầu lại có thể nhìn thấy tai của mình, không
thích nói, vui buồn không ai hay. Lưu Bị là người thích kết giao với
những kẻ hào hiệp. Vì vậy, Trương Thế Bình, Tô Song Kha, các thương nhân
nổi tiếng ở Trung Sơn đều bị kẻ “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương” cuốn
hút, cho rằng ông ta là kẻ không hề tầm thường nên đã cung cấp Lưu Bị
không ít tiền bạc.
Với số tiền của được cung cấp, Lưu Bị
đã mua một đôi binh mã bắt đầu thực hiện kế hoạch tranh đoạt thiên hạ
của mình. Thời đại Tam Quốc là thời đại của những kẻ gian hùng. Tuy
nhiên, khác với Tào Tháo và Tôn Quyền có sẵn một cơ sở vững chắc do thế
hệ trước để lại, Lưu Bị dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng. Tất cả gia sản
của Lưu Bị chỉ là cái danh “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu
Thắng”.
Lưu Bị không phải là một kẻ háo sắc
đến cuồng loạn, do vậy trong sử sách rất ít nói đến chuyện tình ái của
ông ta. Tuy nhiên, Mạnh Tử có nói: “Thực, sắc, tính dã”, nghĩa là chuyện
ham muốn ăn uống và tình dục là bản năng của con người. Lưu Bị cũng
không phải ngoại lệ và chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy
một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.
Những người thích Tam Quốc hẳn ai cũng
nhận thấy rằng, Lưu Bị có một đặc điểm rất xấu đó là đánh được thì
đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ,
của con đều quên sạch. Riêng nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả
sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của Lưu Bị là Hán Cao Tổ Lưu Bang
có sống dậy cũng phải chấp nhận là “hậu sinh khả úy”.
Trong cả sử sách lẫn “Tam Quốc diễn
nghĩa” có thể thống kê được ít nhất 4 lần Lưu Bị có hành động không được
xứng tầm với một đại anh hùng, vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình. Lần
thứ nhất là vào năm Kiến An thứ nhất, khi đó Lưu Bị vừa tiếp nhận ấn
soái Từ Châu. “Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tiên chủ chống lại ở Hu
Di, Hoài Âm,…” Lưu Bị đành để Trương Phi ở lại phòng thủ Hạ Phì còn bản
thân mình thì đem quân chống lại Viên Thuật. Kết quả Tào Tháo cấu kết
với Lã Bố tấn công Hạ Phì, “Bố bắt vợ con tiên chủ làm tù binh”.
Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn
cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, “Bố mới thả vợ con (Lưu Bị) về”. Tới
năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn
biết đóng quân ở đất Tiểu Bái. Trong thời gian này Lưu Bị những muốn
tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này
lại tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối
đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm Dự Châu mục.
Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị
tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối nhục cũ. Tào Tháo
cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm
Lã Bố phục thù. Kết quả là Lưu Hoàng thúc không chịu thua kém ai lại bị
bại dưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao Thuận “lại bắt được vợ
con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”.
Cuối cùng chính Tào Tháo phải thân
chinh đánh Lã Bố. Sách “Tam Quốc chí” chép: “Tào công tự mình thân
chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phì, bắt sống được Bố”. Chỉ tới lúc
này, Lưu Bị mới có thể đem vợ con về. Đó là lần thứ hai. Sau đó hai năm,
đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn
cớ Viên Thuật mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phì vốn đã thuộc
về Tào Tháo.
Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem
quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao
chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng sợ không còn con đường lựa chọn
nào khác “bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại “bắt được thê tử của
tiên chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.
Chúng ta biết đều biết “ba điều kiện”
của Quan Vũ với Tào Tháo rồi “qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu
của nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo
đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo hai vị phu nhân hay không.
Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia
đình, còn sinh ra A Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị
và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và “vợ con tiên chủ”.
Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến dịch Trường Bản,
Lưu Bị “bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng
hơn mười người ngựa bỏ chạy”.
Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được
Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử liệu không thấy
nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch này. Như
vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần,
Tào Tháo bắt hai lần.
Truy nguyên nguồn gốc của sự tình
dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Điều đáng nói là, mọi người thường
ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân
Lưu Bị cũng xác nhận như vậy.
Nhưng cách mà Lưu Bị đối xử với vợ con
như vậy hoàn toàn không thể lấy lý do “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” để
biện minh được. Bởi lẽ, nếu không giữ được cái nhỏ thì chắc gì cái lớn
đã giữ được.
Điều đáng nói là hành động bỏ vợ bỏ
con chạy lấy thân mình của Lưu Bị hoàn toàn trái ngược với hành động hy
sinh tính mạng để cứu con của Mi phu nhân, dù đứa con được cứu hoàn toàn
không phải là con của bà ta.
Thực tế, chuyện này phải bắt đầu từ
hồi thứ 25 “Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo
giải trùng vây”. Khi đó, Quan Công dẫn binh vào Hạ Phì, thấy nhân dân
yên ổn, liền đi vào phủ tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi nghe nói
Quan Công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: “Làm
cho hai chị phải thất kinh, thực là tội của mỗ vậy.
Hai phu nhân liền hỏi: “Hoàng thúc nay
ở đâu?”. Công đáp: “Hiện không rõ”. Hai phu nhân hỏi tiếp: “Nay nhị
thúc định thế nào?” Công đáp: “Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở
Thổ sơn, Trương Liêu khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng
ước hẹn.
Tào Tháo đã đồng ý, nên lui binh cho
tôi vào trong thành. Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa dám
tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: “Ba việc thế nào?”. Quan Công đem ba
việc ở trên mà nói lại một lần. Cam phu nhân nói: “Đêm qua quân Tào vào
thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ chúng không hề động tới, một tốt cũng
không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta?
Chỉ sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc
thôi”.
Công đáp: “Hai chị yên tâm, Quan mỗ
đã có cách”. Hai phu nhân nói: “Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không
phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”. Đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu
nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân là sản phẩm điển
hình của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia.
Qua lời “phàm việc gì không phải hỏi
hạng nữ lưu như chúng tôi” và “Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai
chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại hoàn
toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống
chết của bản thân họ đều do người đàn ông nắm giữ. Những hình tượng phụ
nữ như thế là một dạng ký hiệu tồn tại trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.
Ý nghĩa mà họ mang theo trong tác phẩm
văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người
đọc. Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự
cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh cảm động của Mi phu nhân
trong hồi thứ 41 của “Tam quốc diễn nghĩa”, Lưu Huyền Đức mang dân qua
sông, Triệu Tử Long một ngựa cứu thiếu chủ.
Khi đó, quân Tào trùng trùng vây khốn
Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi
phu nhân bị trọng thương. Đối diện với có hội sống sót duy nhất đó,
người phụ nữ này nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một
cách đầy nghĩa khí rằng: “Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội
sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể thương xót phụ thân của A Đẩu nửa
đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa
con này, dẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.
Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa
con không phải do mình sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Một
người phụ nữ không mảy may nghĩ đến tính mạng của bản thân để bảo vệ đứa
con của người phụ nữ khác, điều này có lẽ chính là nguyên nhân đã khiến
Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không ngừng, cứu được
tiểu chủ nhân.
Kết thúc hồi này, La Quán Trung đã đặc
biệt ca ngợi Mi phu nhân rằng: “Dùng cái chết để bảo tồn dòng giống họ
Lưu, Đấng nam nhi còn thua người phụ nữ trượng phu này”. Sự đáng kính
của người con gái anh hùng can đảm vì đại nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này
khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này,
độc giả không khỏi cảm thấy xúc động.
Một người phụ nữ vì đại nghiệp của
chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh khiến cho nhiều đấng mày râu không
khỏi thẹn thùng. So với hành động của Mi phu nhân, việc bỏ vợ con chạy
lấy thân mình của Lưu Bị sao có thể nói là “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn”
được?
Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng
thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị
đã được một người xem tướng nói rằng: “Cô gái này sau này sẽ phú quý vô
cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”. Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự
Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều qua
đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh
Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A Đẩu.
Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi
quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ lớn lẫn
vợ bé. Hoàn toàn dựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới
thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích
Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô “hương tan ngọc nát”, gặp
bạo bệnh mất ở tuổi 24.
Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy
đông chạy tây, trôi dạt nghèo khổ tương phản hoàn toàn với dự đoán của
người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút
hạnh phúc nào. Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành
không giống với những phụ nữ bình thường khác. Mười tám tuổi đã trở
thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong
trướng lụa, đứng ở ngoài trời mà nhìn.
Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ
dưới ánh trăng vậy. Ở Hà Nam có người muốn lấy lòng Lưu Bị, dâng tặng
một tượng ngọc cao ba thước (khoảng 1m), Lưu Bị đem tượng ngọc này để
cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục
để so sánh với người ngọc ở bên.
Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không
khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: “Điều quý của ngọc là ở chỗ nó
có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc
thành nhân hình thì khó mà bỏ đi được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam
phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không biết
đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá
hủy tượng ngọc.
Bà từng khuyên Lưu Bị rằng: “Trước đây
Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện
tại Ngô và Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí
của mình. Phàm là thứ gì sinh ra dâm cảm đều không nên dùng”. Lưu Bị
nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc. Tổng quan
mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có
một chút tựa hồ tốt đẹp: từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết
được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân.
Đến khi hậu chủ Lưu Thiện tức vị đã
phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng
sự tôn vinh này cũng chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là
“phú quý nhờ con” mà thôi. Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là
bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính
thất nhưng khi Lưu Bị làm Hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà
nữa.
Tam Quốc chí của Trần Thọ
cũng không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một
câu của Mi Trúc truyện (Trúc dâng em gái của mình làm phu nhân của tiên
chủ). Có thể nói rằng, Mi phu nhân lúc còn sống thì gian khổ, gặp hết
kiếp nạn này tới kiếp nạn khác khi chết lại im hơi lặng tiếng.
Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu
Bị đã từng nói rằng: “Anh em như tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi”
mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì “quần áo rách,
có thể may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Nhiều
người cho rằng, câu nói này thể hiện khí phách anh hùng, hoài bão kinh
bang tế thế của Lưu Bị. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng điều này chỉ
thể hiện sự coi thường của Lưu Bị đối với vợ con mình.
Với Lưu Bị, vợ con chỉ giống như đồ
vật, tùy lúc, tùy nơi có thể thay được. Chính vì thế, trong cuộc đời
mình, Lưu Bị rất nhiều lần bỏ vợ con chạy thoát thân và cũng lấy rất
nhiều vợ. Trước khi lấy Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị đã trải qua nhiều đời
vợ. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh loạn lạc, vợ của Lưu Bị hoặc
chết vì bệnh, hoặc chết vì chiến loạn nên dù là vợ thứ nhưng Cam phu
nhân được Lưu Bị giao cho nắm quản mọi việc trong gia đình.
Sau này, ngoài Cam, Mi phu nhân, Lưu
Bị còn lấy hai người nữa làm vợ. Một người chính là em gái của Tôn
Quyền, sử gọi là Tôn phu nhân. Người còn lại chính là người được Lưu Bị
phong làm Hoàng hậu, Ngô thị. Hôn sự mang màu sắc chính trị này đã được
rất nhiều tài liệu nhắc tới. Tuy nhiên, có lẽ ít người được biết tới câu
chuyện lấy góa phụ Ngô thị của Lưu Bị.
Ngô Thị từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn
mẹ, trước khi chết, cha của Ngô thị đã gửi gắm cô cho Ích Châu Mục là
Lưu Yên. Lưu Yên nghe thầy tướng số nói Ngô thị có quý tướng, sau này ắt
hẳn giàu sang, phú quý tột bậc có thể làm tới hoàng hậu, vì vậy muốn
cưới Ngô thị làm vợ.
Tuy nhiên, do Lưu Yên và cha Ngô thị
là bạn bè lâu năm, nay lại lấy con bạn thì thật không phải, vì thế, Lưu
Yên đành cưới Ngô thị cho con trai mình là Lưu Xương. Lưu Xương sau đó
chết sớm, Ngô thị trở thành góa phụ.
Tới năm 214, Lưu Bị lấy thành Ích
Châu, quần thần khuyên Lưu Bị lấy Ngô thị, Lưu Bị nghĩ rằng mình với Lưu
Xương là người cùng họ, lấy Ngô thị e không tiện. Tuy nhiên cuối cùng,
do quần thần khuyên nhủ, Lưu Bị quyết định nạp Ngô thị làm thiếp.
Vào năm Kiến An thứ 24, sau khi lên
ngôi Hán Trung Vương, Lưu Bị lập Ngô thị làm Vương hậu. Tiếp đó tới năm
Chương Vũ thứ nhất, Lưu Bị xưng đế, lập Ngô hậu làm Hoàng hậu. Năm 221,
Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát
Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can.
Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi
quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu
đi cùng. Tôn Quyền sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân
Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân
Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà
sinh bệnh nặng sau đó chết tại đây.
Theo Hôn nhân & Pháp luật
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net)