Trong ngày tiết Thanh minh
phải cúng lễ tại hai nơi là tại gia đình và tại các ngôi mộ. Khi đến
những nơi có đặt mộ phần của gia đình mình, các gia chủ đặt lễ vào chỗ
thờ chung để lễ. Nếu nơi đó không phải là nghĩa trang, không có chỗ thờ
thì có thể dùng các thứ đôn, kệ để đặt đồ lễ mà cúng vái.
Theo Đại đức Thích Quảng Định trong
sách Văn khấn nôm tại nhà – tập văn cúng gia tiên, lễ vật trong ngày
thanh minh gồm: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu, thịt (chân giò, gà
luộc hoặc là khoanh giò nạc độ vài lạng).
Bắt đầu vào lễ, gia chủ thắp hương, đèn và khấn theo bài cúng lễ Thanh minh.
Sau đó, trong lúc chờ hương tàn thì gia chủ đi đến phần mộ của gia tiên
thắp hương và khấn gia tiên để xin phép tu sửa, dọn dẹp cho phần mộ.
Lưu ý là số nén hương thì thắp số lẻ (1 hoặc 3 nén) vì số lẻ tượng trưng
cho cõi âm còn đèn thì mang theo hai đèn hoặc 2 cây nến vì thắp lên, 2
ngọn đèn tượng trưng cho 2 vầng nhật nguyệt.
Sau khi hoàn tất các việc, gia chủ chờ
cho hương cháy được khoảng 2/3 thì lễ tạ , hóa vàng và xin lộc về nhà
để làm lễ gia thần và gia tiên ở nhà. Nếu gia chủ viết bài cúng ra giấy
thì đọc xong đem hóa cùng tờ tiền giấy vàng.
Việc cúng gia tiên trong tiết thanh
minh cũng tuân theo thể thức cúng gia tiên thông thường. Thể thức này,
theo sách Phong tục thờ cúng của người Việt thì có những nguyên tắc
chung là: dâng hương lễ gia thần trước, gia tiên sau.
Các vật phẩm dâng hương có thể là lễ
chay hoặc lễ mặn (các gia đình thờ Phật thì chỉ dâng lễ chay). Các lễ
vật gồm: hương, đèn, chè, quả, rượu, nước trong, trầu cau và tiền vàng.
Lễ vật đặt trên bàn có thể chung nhưng nếu có nhiều bát hương thì bát
nào cũng phải thắp hương cả. Số hương trong từng bát cũng là những số lẻ
(1 hoặc 3 nén). Sau khi hương cháy gần hết thì gia chủ lại thắp thêm
một tuần hương nữa rồi xin phép tổ tiên hóa vàng. Tiền vàng khi đã cháy
thành tro thì lấy một chén rượu cúng rẩy vào đám tro đó.
Trong khi hành lễ cúng gia thần,
gia tiên đều có hai hình thức là vái và lễ. Vái thì các ngón tay đan
vào nhau còn lễ thì hai bàn tay áp vào nhau và đều đặt ở ngang trước
ngực. Vái hay lễ đều chỉ được thực hiện sau khi lễ vật đã đặt lên bàn
thờ và đèn nhang đã thắp. Người làm lễ sau khi đã châm lửa, kính cẩn
dùng hai tay dâng các nén hương ở vị trí ngang chán, vái ba vái rồi mới
cắm hương vào bát hương. Sau đó người lễ khấn theo bài cúng gia tiên.
Khấn xong vái ba vái rồi chờ hương cháy gần hết mới hóa vàng.
Về vấn đề lễ chay hay lễ mặn, ngày nay
có những quan niệm khuyên nên cúng bằng lễ chay vì như vậy là không sát
sinh nên vong hồn tổ tiên dễ siêu thoát. Lễ chay gồm: Xôi chè, oản
chuối, bánh trái, chai nước, gạo muối, bỏng, bơ, chén mật ong.
Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net)