Mệnh Thân và cung Bào : thế của Mệnh thân sinh cho Cung bào nhị
hợp, đương số giúp cho anh em hay chăm sóc cho anh em hay ít ra biết lo lắng
đến anh em. Thế của Cung Bào sinh cho Cung Mệnh hay Thân là anh em của đương số
trợ giúp và săn sóc cho đương số, lo lắng cho đương số. Mệnh thân và tử tức : thế của Mệnh thân sinh cho Cung tử tức nhị
hợp, đương sự săn sóc nhiều cho con cái và lo âu cho con cái đủ mọi chuyện. Thế
của Cung tử tức sinh cho Cung Mệnh thân tức là con cái của đương số chăm sóc lo
toan nhiều cho đương số, nói cách khác là đương số được con cái chăm sóc lo
toan đầy đủ vì có con hiếu tử. Mệnh thân và giải ách : thế của Mệnh và thân sinh cho Cung giải
ách nhị hợp thì có nghĩa là đương số mất nhiều sức lực vì bệnh tật, phải bận
tâm nhiều đến vấn đề sức khỏe, vóc người gầy ốm vì bệnh tật. Ngược lại Cung
giải ách nhị hợp sinh cho Cung Mệnh thân tức là đương số được tật ách nuôi,
cũng phải bận tâm nhiều đến vấn đề bệnh tật nhưng lại được cái may là tai nạn
được qua khỏi dễ dàng. Mệnh thân và nô bộc : thế của Mệnh thân sinh cho Cung nô bộc nhị
hợp nghĩa là đương số giúp đỡ nhiều cho bạn hữu và người làm công nghĩa là lo
toan chăm sóc tận tâm cho những người đó. Cung nô bộc nhị hợp ở thế tam hợp
sinh cho Mệnh thân : đương số được hưởng nhiều về bè bạn và người làm, những
người này hết lòng lo toan chăm sóc cho đương số. Mệnh thân và điền trạch : thế của Mệnh thân sinh cho điền trạch
nhị hợp, đương số phải lo toan thắc mắc nhiều về điền trạch, phải đuổi theo các
vấn đề về nhà cửa ruộng vườn đến mệt người, gặp nhiều chuyện bực mình tán tài
hoặc kiện tụng vì nhà cửa ruộng vườn. Cung điền trạch nhị hợp sinh cho Mệnh
thân đương số được yên ổn về vấn đề nhà cửa ruộng vườn, nhà cửa được yên vui. Mệnh thân và phụ mẫu : thế của Mệnh thân sinh cho Cung phụ mẫu
nhị hợp, đương số biết lo toan chăm sóc và để tâm vào việc phục vụ cha mẹ tức
là đương số là người con có hiếu. Cung phụ mẫu nhị hợp sinh cho Cung Mệnh thân
đương số được cha mẹ lo toan chăm sóc xây dựng cho đầy đủ. Những trường hợp đặc biệt : trong bản giải đoán lá số ông Tạ Thu
Thâu cụ Thiên Lương có viết : còn nội cảnh của Mệnh thân (ở nhị hợp ta thấy
Mệnh ở mùi là cảnh trí sinh xuất cho bào, thân ở tỵ sinh xuất cho phụ mẫu)
người này nặng óc gia đình dù ở hoàn cảnh nào cũng muốn trợ lực cha mẹ và nâng
đỡ anh em chứ không phải vì vợ giỏi quán xuyến đảm đang (thiên tướng ở thê,
thân cư thê). Lá số Mệnh tại Cung thân, thân cư quan lộ tại tý. Mệnh tại thên
thuộc tam hợp thân tý thìn (thủy). Tử tức nhị hợp tại tỵ thuộc tam hợp tỵ dậu
sửu (kim), kim sinh thủy, đương số có những người con có hiếu chăm sóc cho
mình. Thân cư quan lộc tại tý (thủy), nhị hợp là nô bộc tại sửu thuộc tam hợp
tỵ dậu sửu là kim, kim sinh thủy, đương số được bạn bè hết lòng giúp đỡ và năng
lui tới. Lá số Mệnh tại sửu nhị hợp là Cung bào tại tý, thế tam hợp Mệnh
là kim sinh cho thế tam hợp bào là thủy, kim sinh thủy, người năng chăm sóc
từng ly từng tí cho anh em. Nhưng Cung Mệnh lại quá kém vì nghèo còn Cung bào
lại tốt vì anh em giàu có. Như thế làm sao đương số giúp đỡ bảo bọc được cho
anh em. Đây là một yếu tố để phối kiểm thêm và nếu không có khả năng giúp đỡ
anh chị em về vấn đề tiền bạc nhưng vẫn nghĩ đến anh chị em và cố gắng giúp đỡ
trong phạm vi có thể làm được trong những việc thông thường. Lại một người có Mệnh tại sửu, thân cư thê tại hợi, tam hợp hợi
mão mùi thuộc mộc, nhị hợp là phụ mẫu tại dần, tam hợp dần ngọ tuất thuộc hỏa,
mộc sinh hỏa. Vậy đây là trường hợp con có hiếu với cha mẹ nhưng nếu cha mẹ
người này đã chết làm sao phụng dưỡng. Tất phải luận là dù đương số mồ côi cha
mẹ nhưng vẫn một lòng nhớ đến cha mẹ, cúng giỗ cẩn thận và chân thành tưởng
niệm công ơn người đã khuất. VÒNG THÁI TUẾ Có lẽ đây là vòng sao quan trọng nhất đối với người nghiên cứu
Tử Vi bởi vì vòng sao này diễn tả tính khí phẩm hạnh của đương số cũng như nó
cho biết chu kỳ thăng trầm của cuộc đời cho nên một lần nữa ta lại phải phân
tích hành của tam hợp : dần ngọ tuất là hỏa, thân tí thìn là thủy, tỵ dậu sửu
là kim, hợi mão mùi là mộc. Vòng thái tuế có 12 sao là thái tuế, thiếu dương, tang môn,
thiếu âm, quan phù, tử phù, tuế phá, long đức, bạch hổ, phúc đức, điếu khách và
trực phù ; 12 sao đó chia thành 4 nhóm Mệnh danh như sau : + Nhóm chính phái : thái tuế, quan phù, bạch hổ. + Nhóm tả phái : tuế phá, điếu khách, tang môn. + Nhóm thiên hữu : thiếu âm, long đức, trực phù. + Nhóm thiên tả : thiếu dương, tử phù, phúc đức. Những người tuổi dần
ngọ tuất, các Cung Mệnh tài quan đóng ở 3 Cung dần ngọ tuất tức là có nhóm sao
chính phải đóng ở 3 Cung dần ngọ tuất tức là có nhóm sao chính phải đóng thì là
những người đảm lược, anh hùng quảng đại. Tiếp tục luận như tên thì những người
thuộc tuổi tỵ dậu sửu, thân tý thìn hợi mão mùi mà 3 Cung Mệnh tài quan đóng ở
3 Cung trên đều là chính phải cả. Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 Cung thái tuế,
quan phù, bạch hổ đến là thời vận tốt nhất cho đương số. Khi Cung Mệnh của
đương số thuộc nhóm tả phái tức là có những sao tuế phá điếu khách tang môn ở
Cung Mệnh tài quan thì đó là những người bất mãn và hay gặp chuyện trái ý phật
lòng. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu tức là ở Cung Mệnh tài quan có sao thiếu
âm long đức trực phù là những người bản chất hiền lành nhu nhược hay bị lợi
dụng. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả tức là ở Mệnh tài quan có các sao thiếu
dương tử phù phúc đức là những người khôn vặt lanh lợi hay toan tính chuyện lấn
lướt người khác. Ta cần ghi nhận rằng
Tử Vi được hình thành trong cơ cấu của dịch lý qua 2 động lực căn bản âm dương
và ngũ hành do đó cần tìm nguồn tương quan lý học để từ đó có thể dò dẫm ra
bước đường sáng tạo của cổ nhân. Sau khi nguồn căn bản đã có việc cần nêu lên
cho chúng ta là phải giản dị khi áp dụng một cách trực tiếp từ dịch học sang Tử
Vi, vì vậy ta không thể quá câu nệ vào các câu phú để rồi nhiều khi mâu thuẫn
nhau vào những lời giải đoán phức tạp. Tương quan của vòng
thái tuế qua Cung Mệnh, nhị hợp và xung chiếu, để đề cập vào phạm vi này cần
lưu ý đến liên hệ trên biểu kiến (bề ngoài) và nội tại (bên trong) cũng như xét
qua lại vòng thái tuế ứng dụng vào sự tiêu biểu mặt trái ở đó so với Cung nhị
hợp, Cung chính (xung) chiếu, ngoài ra để do áp dụng xin trình bày vài ví dụ
điển hình dưới đây : + Tính tình bề ngoài
và nội tâm : hàng ngày chúng ta được tiếp xúc với nhiều hạng người, tính tình
mà chúng ta thấy họ biểu lộ hàng ngày không hẳn là đích thực tình trạng bên
trong nội tâm của họ. Đó cũng là một hiện tượng ý nghĩ tương phản lời nói. Hai
trạng thái ngoại biểu (hay biểu kiến) và nội tại sẽ được phơi trần ra trước ánh
sáng của vòng thái tuế và mới là điều phúc lợi. Ví dụ : Mệnh ở tý có quan phù,
hợp là sửu (phụ mẫu) ta thấy về phương diện nội tại đương số được cha mẹ bảo
bộc nuông chiều giúp đỡ, do bởi căn nguyên là sự khôn ngoan lời nói lễ phép dè
dặt (đặc tính của quan phù) mà đương số được hưởng phúc này. Thế tam hợp Mệnh
và thiên di cũng như thế, nhược điểm chính yếu chính là số ngoại biểu và nội
tâm chưa được ai đề cập đến vì khái niệm vòng thái tuế chưa được triển khai
rộng rãi theo khoa tâm lý học, vòng thái tuế cần phải phân tích ra hai trạng
thái tĩnh và động, tĩnh trong động và động trong tĩnh. Phương diện tĩnh tượng
trưng cho tư tưởng tính tình hoặc tinh thần qua vòng thái tuế ở Mệnh, động là
phương diện cần an bài đúng vị thế. Do đó vòng thái tuế ở Mệnh chỉ nói riêng về
tư tưởng còn là nói thái độ được sắp xếp theo 12 sao của vòng thái tuế theo
tiêu chuẩn sau đây : 1. Thái tuế : Mệnh có
thái tuế là người có tư tưởng tự tôi theo lý tưởng ngay chính nghiêm nghị, tự
cho mình có thiên Mệnh để thi hành. Do đó thường cảm thấy không có ai xứng với
mình về những phương diện tư cách hòai bão. Ý nghĩa trên xuất phát từ người
thái tuế tượng trưng cho ngôi vua là thiên, tử là con trời, vì ở xa dân ngay cả
đến quần thần nên người có thái tuế thường cảm thấy cô độc ít tri kỷ. 2. Quan phù : tính
chất quan phù ở Mệnh mang lại cho đương số một sự khôn khéo biết tiến thóai tùy
lúc mà vẫn không mất tư cách ngay thẳng chính trực của mình. Đó là một điểm khó
khăn ít người dung hòa được. Người có quan phù thủ Mệnh rất giỏi lý luận, biết
người biết ta nên rất tế nhị, chinh phục người khác bằng tư tưởng chính phái
của mình. 3. Bạch hổ : tính tình
có vẻ sắt đá gan dạ, nóng nảy với hậu thuẫn là mình thuộc chính phái. Người có
bạch hổ thủ Mệnh dễ làm mất lòng người khác vì lời nói thật hay mất lòng. Nhưng
nếu cứ ở miếu địa (đậu) là cách bạch hổ khiếu tây phương thì lời nói thẳng
nhưng rất có oai làm người khác nể sợ. 4. Thiếu dương : là
tùy tinh mang tính chất của sự biến dịch của tứ tượng bát quái, tuy sáng suốt
nhưng là sự sáng suốt sa chân vào hố sâu, cần có nghị lực siêu phàm mới sử dụng
được nó. Trước tiên nếu có đồng Cung hay chính chiếu với hồng loan thì nó có
đặc tính quên mình bỏ cái ta đi để gánh vác việc đời. Ngược lại nếu nó đi với
đào hoa thì trở nên vị kỷ chỉ nghĩ đến mình, vì mình tất cả. Còn vị trí thiếu
dương thiên không ở tứ mộ thì phần hay ít dở nhiều, tuy nhiên cũng có trường
hợp ngoại lệ. Tóm lại người mang cá tính thiết dương dù vị kỷ hay vị tha cũng
là một người sáng suốt hơn người, vượt lên trên mọi người. 5. Phúc đức : cũng nằm
trong tam hợp thiếu dương nên âm hưởng của sao này đem lại cho đương số sự sáng
suốt hơn người nhưng dù sao tính tình vẫn giữ được chữ đức làm đầu. Người có
sao phúc đức là người thích vươn lên với đời trong sự sòng phẳng tương quan đổi
chác song phương hưởng lợi. 6. Tử phù : không như
hai sao thiếu dương và phúc đức, thế của sao tử phù cũng là sáng suốt nhưng là
thứ sáng suốt để lừa lọc người ta với tính tình ma mãnh dám làm điều xằng bậy
nếu có dịp, vì từ lời nói tư tưởng đến hành động đối với những người này cách
nhau không xa. 7. Trực phù : do tính
chất của địa chi thì vòng trực phù long đức thiếu âm bị sinh xuất hoặc bị khắc
xuất do đó nhóm này bị nhiều thua thiệt ở đời vì thế tương quan trong thế tam
hợp thì chịu nhiều thiệt thòi nhưng riêng vị thế trực phù thì cá biệt mà nói
mang sao này trong các công việc dù công hay tư không được đãi ngộ tương xứng
với khả năng của mình. 8. Long đức : tuy cùng
chi phối với trực phù nhưng cũng như phúc đức, vị thế long đức còn chịu sự chi
phối của nhóm tứ đức. Vì vậy thua thiệt người long đức thường hiền hậu an phận
không thích mạo hiểm bon chen, cuộc đời thụ động quá mức đến bi quan. 9. Thiếu âm : là vị
thế của vòng trực phù nhưng cũng nằm trong chu trình tiến hóa của dịch lý và
tương phản với thế thiếu dương nên người thiếu âm thường bị thua thiệt để quan
niệm chủ quan lắm lúc tự lừa dối mình. Quá hiền hậu, quá hào phóng hoặc quá tự
tin người khác để trở nên khờ dại dễ mắc lừa. 10. Tang môn : có
người cho rằng thế tang môn phải được ghép với thế bạch hổ hoặc ngược lại vì đó
là một cặp trong lục bại tinh. Nếu luận theo lẽ biến dịch ngũ hành với 12 Cung
so với ý nghĩa các Cung như tam hợp nhị hợp chính chiếu hoặc giáp xung thì sẽ
không lạ gì có sự phân cách riêng biệt giữa từng cặp sao dù là một bộ như tang
hổ, song hao, tướng binh. Vị thế của tam hợp tang môn điếu khách tuế phá là vị
thế đối nghịch hoàn toàn của tam hợp tuổi ; chính đây là một điểm xung sát để
tạo thành. Thời thế tạo anh hùng gây dựng nên thời cuộc là sự biến ảo của mấu
chốt này. Cá biệt sao tang môn cho thấy người có sao này thường gánh nhiều mối
ưu tư phiền tóai bận tâm ; nếu suy luận thì bất cứ làm việc lớn hay nhỏ người
này cũng suy tư lo lắng. Người này không thích đùa với ai và cũng không thích
ai đùa với mình, trong tâm trạng suy bụng ta ra bụng người làm người này trở
nên dè dặt tế nhị. 11. Điếu khách : khóac
lên mình một gánh nặnt chống đối việc ở đời, người có sao điếu khách thường
thích đả kích người khác, thích tranh luận bàn cãi và thuyết phục người khác.
Vì thế có người đã không ngần ngại gán cho những người có sao điếu khách là sẽ
làm nghề thầy cãi (luật sư) vì mã khốc khách, cũng như đã không nề hà gì mà gán
chức vị thẩm phán cho những người có quan phù thủ Mệnh thân. Đành rằng sự gán
ghép này có căn bản riêng của nó nhưng về nghề nghiệp là có một sự phức tạp vì
nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố không phải chỉ đơn thuần ở vòng sao thái tuế.
12. Tuế phá : cũng
tương tự như đặc tính sao điếu khác nhưng ở đây sao tuế phá là một nét dị biệt,
một trạng thái của sao đối lập (chống đối người khác) có thể làm được những
việc phi thường nếu được thêm vài yếu tố ở thân. Vài ví dụ thực tế : Người có bạch hổ thủ
Mệnh ở dậu, nhị hợp là giải ách ở thìn thiên di ở mão, chỉ cần mấy yếu tố này
chúng ta sẽ phác họa ra bề mặt và bề sau của tâm hồn một người. Như đã trình
bày trên qua hai yếu tố biểu kiến và nội tại mà ta gọi giản dị hơn một bề ngoài
bề trong đã có sơ lược giải khái quát về tính tình đương số : Bề trong lúc nào
cũng canh cánh trong lòng về những bất trắc ở đời, nhiều khi quá bận tâm về hậu
quả của một mình làm dù việc này không có gì đáng bận tâm (Mệnh sinh xuất cho
giải ách). Bề ngoài có vẻ sắt đá gan lì với hậu thuẫn chính nghĩa lẽ phải của
mình. Tổng kết lại là dù bề trong có e dè nhưng khi giới hạn e dè đã bị vượt
qua thì người này dám bất chấp làm bất cứ việc gì không cần nghĩ đến hậu quả
với niềm tin là lẽ phải về phần mình mà coi thường đối phương. Mệnh có tang môn ở
tuất, nhị hợp là nô ở mão, thiên di ở thìn : Bên trong : đương số thích được
bạn bè yêu mình, thích được người khác chiều chuộng nể vì mình. Bề ngoài : mang
tâm trạng tế nhị, mang một mối lo âu, có nhiều sự bận tâm không thích những trò
đùa dai. Do đó đương số dễ mang nét âu sầu trên gương mặt hay bi quan trước
cuộc sống. Tương quan của vòng
thái tuế qua Cung thân nhị hợp xung chiếu : Mới trông qua cũng
giống như chương I nhưng nếu xét kỹ thì thấy có điểm khác biệt duy nhất mà ta
đã xét khái lược ở trên, đó là vòng thái tuế chỉ về tư tưởng ngược lại thì ở
thân vòng thái tuế lại chỉ về hành động vật chất. Nội dung của phần hai đã vạch
sẵn như vậy ta có thể xét theo từng mục hành vi biểu kiến mặt trái ở đời. Những
thí dụ điển hình : + Hành động biểu kiến
về tiềm ẩn : ở đây phương cách lý luận cũng như phần 1 nhưng đổi vị trí lại,
một đàng là Cung Mệnh và Cung nhị hợp của nó, một đàng là hành động tiềm ẩn,
tức là cứu cánh khác với phạm vi nội tâm. Cứu cánh sau cùng của hành vi là do
Cung nhị hợp thân sinh nhập hay sinh xuất với Cung an thân, phải được sinh nhập
mới tốt. Thí dụ : thân có quan lộc ở sửu có điền trạch nhị hợp ở tý thì hành
động cứu cánh của đương số chính thức là do về nhà cửa hay nói bao quát hơn là
lo về việc nhà việc gia đình. + Bên ngoài có phối
hợp Cung số mà thân cư với vị thế vòng thái tuế thì mới hiểu rõ hành động bên
ngoài chịu ảnh hưởng gì và đặc điểm gì ? Trước tiên ta phải xét thân cư Cung số
nào trong các Cung số : Mệnh (thân Mệnh đồng Cung phú quan di tài phối) để từ
đó ta có thể biết hành động bên ngoài chịu ảnh hưởng gì trong 6 Cung số trên.
Về điều này không có gì mới lạ, các sách đều có nêu ra. Sau khi đã được rõ Cung
an thân ta mới so sánh với Cung số nhị hợp xem sinh nhập hạn sinh xuất cho Cung
an thân. Cần phải biế rằng hành vi bên ngoài là phương tiện còn hành vi tiềm ẩn
là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Ví dụ thân cư quan lộc ở sửu nhị hợp
Cung điền trạch là Cung tý, có thái tuế chính chiếu ở mùi, ta có thể phối hợp
các dữ kiện bên ngoài và bên trong để xét hành vi một cá nhân : * Bên ngoài : thân có
thái thuế chính chiếu thuộc thế mộc thuộc thế tam hợp của thân thuộc nhóm kim
(tỵ dậu sửu) do đó bề ngoài đương số có vẻ tự cao tự đại. Nếu có nhiều nhóm sao
quá khích như hỏa linh kình đà thì sẽ biến ra kiêu căn kênh kiệu bề ngoài, khi
bắt tay vào việc đương số dễ dàng thắng hoàn cảnh vượt qua trở ngại để đạt mục
tiêu. * Bên trong : thế tam
hợp là kim bị sinh xuất cho thế nhị hợp thế thủy của Cung điền trạch đương số
là người biết lo cho gia đình nhà cửa. Tổng kết có thể phối hợp như sau : người
năng hành động thường tỏ ra tự tôn, không có bạn tri kỷ tri bỉ, thường hành
động một mình trong mọi vấn đề liên quan đến nghề nghiệp và những thắng lợi về
khoa cử công danh. Và phương diện biểu kiến có vẻ háo danh, cố tìm phương tiện
nhưng tất cả nhắm tới hành động sau cùng (cứu cánh) là cho nhà cửa ruộng đất
cho gia đình mình. Vòng thái tuế và hành
động của mỗi cá nhân : 12 sao của vòng thái tuế được ghi nhận ở Cung an thân
như là một thế động mà tĩnh ứng với nguyên lý âm dương của biến dịch. Trong
phần trên đã viết về vòng thái tuế trong trạng thái tĩnh, do đó phần này chỉ viết
trong phạm vi động. Thí dụ : Mệnh có bạch
hổ thì tính tình có vẻ sắt đá nóng nảy dễ làm mất lòng người khác. Thân có bạch
hổ thì hành động dũng mãnh đôi lúc hành động làm thiệt hại hay làm người khác
sợ hãi vì hành vi ngang tàng của mình. Thí dụ thực tế : thân
có tuế phá ở ngọ cư quan lộc, nô bộc cư Cung mùi, phối ở Cung tý, Mệnh ở dần có
tang môn nhị hợp là tử tức ở hợi, thiên di đóng ở Cung thân. Ơ trường hợp này
ta phải phối hợp hai phần 1 và 2 để tổng luận đương số là người hay lo lắng bất
cứ điều gì nhưng trong thâm tâm rất yêu thương con cái. Ngoài ra đương số ở
trong môi trường chống đối mới tạo lập được cuộc sống hợp với bản tính tế nhị,
chăm sóc con cái cẩn thận, lúc nào cũng nghĩ đến đàn con dại nhưng bề ngoài
đương số lại phải chống cự với hoàn cảnh, cần phải ghi rằng các thế nhị hợp
chính chiếu vòng thái tuế có thể bị suy giảm ý nghĩa do sự hiện diện của tuần
triệt hay hung tinh. Nhưng dù thế nào ý nghĩa chính cũng vẫn tập trung bao gồm
những điểm bao quát trên. Thân đương số đóng ở Cung quan lộc có tuế phá lại
được Cung nô bộc sinh nhập là một dịp gỡ gạc cho đương số, tuy rằng Cung phối
cũng lấn lướt nhưng nhẹ nhàng. Mệnh và thân đương số cùng một phe lý thuyết đi
đôi với việc làm thì còn gì tốt cho bằng. Đương số bắt tay vào việc do tính tình
tế nhị của mình và hành động đả phá của mình, tuy không đạt đến tuyệt đỉnh, hơi
muộn màng nhưng cũng đã thành công trên đường đời. Sự thành công này bắt nguồn
từ bạn bè, người dưới giúp đỡ. Đây là một chứng minh quan niệm vòng thái tuế
quan trọng nhất với cá tính, nhờ cá tính mà đi đến thành công. Ví dụ : thân Mệnh đồng
Cung tại ngọ có bạch hổ, nhị hợp là phụ mẫu ở mùi, thiên di ở tý (lá số Hàn
Tín) đương số là người lời nói đi với việc làm, có nhiều hoài bão to lớn, tính
tình lỳ lợm, hành vi cũng không kém phần lỳ lợm. Hành động dũng cảm chỉ có
người trí dũng ôm ấp nhiều giấc mộng đạp đất và trời để từ đó tùy cơ hội mà
dựng nên nghiệp lớn. Thái độ và hành động đầy chính nghĩa dù có đôi chút vị kỷ
vì có sao hóa lộc thủ Mệnh hội cùng đẩu quân được bà phiếu mẫu hiểu thấy và bao
bọc trong lúc hoàn cảnh cơ hàn (được phụ mẫu ở họ nhị hợp). Tiếc thay một tài
hoa hiếm có như Hàn Tín mà bị trời đặt cho một Cung thiên di thua sút cho nên
ra đời đã gặp nhiều hoàn cảnh thử thách, may mà thân và Mệnh đồng Cung mới đủ
sức chống chọi để vươn lên với đời, nhưng rồi chung cuộc vùng vẫy cho lắm để
rồi cũng thất bại với hoàn cảnh (chết vì tay mụ Lã Hậu). Tam hợp Mệnh tài quan
phối hợp qua vòng thái tuế : thế tam hợp luôn luôn đóng vai trò chủ chốt trong
khoa Tử Vi, thế tam hợp kết hợp ra ngũ cục (kim mộc thủy hỏa thổ cục) cho đến
các vị trí tiểu hạn an theo từng tam hợp tuổi. Rõ rệt hơn cả là thế tam hợp
Mệnh tài quan là câu nói đầu tiên của người biết xem Tử Vi. Đó là một bình diện
của yếu tố địa chi trong 4 yếu tố : can chi, tuổi, Mệnh, cục của 2 thành tố gia
đình và xã hội. Trong lãnh vực tâm lý học với vòng thái tuế vai trò của tam hợp
rất quan trọng, nó đã cho ta các vị thế để biết bề mặt trái của các vấn đề. Ơ
Mệnh thân đồng Cung thái tuế tác động nhiều ở trong thế tam hợp Mệnh tài quan
sự kiện này đặt cho ta một vài dữ kiện phải giải quyết như : thân Mệnh đồng
Cung thân cư tài bạch hay quan lộc. Thân Mệnh đồng Cung :
tư tưởng và hành động cùng là một, lời nói đi đôi với việc làm. Người thân Mệnh
đồng Cung dù ở vị thế nào của vòng thái tuế cũng vậy, luôn luôn cố phấn đấu với
hoàn cảnh. Vì vậy trong trường hợp này vòng thái tuế có ý nghĩa : trời cho cha,
cho hình hài để hồn nhập vào, mẹ cưu mang những đặc thái của một cá nhân, đặt
để ra trong môi trường mà kể từ lúc mới sinh cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Hành
động tức cái ta lúc nào cũng đối kháng môi trường (hoàn cảnh) sẵn có của ta. Là
người quyết tâm chống lại hoàn cảnh dù thành hay bại. Thân an tại tài bạch
hay quan lộc ở đây cũng cùng một thế tam hợp với Mệnh cũng như về vòng thái tuế
có vị thế đặc biệt cần ghi lại. Nếu vị thế đặc biệt tức Cung thiên di thì vị
thế tam hợp Mệnh hay thân ở vị thế lấn lên hay chống đối thì mới đủ khả năng
hành động vươn lên với đời. Về các điểm này xin xem các ví dụ dẫn giải ở trên
và nên áp dụng một cách linh động trong tương quan bề ngoài hay nội tâm thì mới
nắm được yếu quyết của vòng thái tuế. Thiệt ra mối quan hệ về vòng thái tuế qua
các mối liên hệ giữa các Cung số nói trên được dẫn giải bằng đường lối dung hòa
hai quan niệm dùng dịch lý trở về nguyên khoa Tử Vi và khoa học hóa cho dễ diễn
đạt thích ứng vào đời sống hiện đại. Sau hết vòng thái tuế
tức là hạn, các cụ thầy bói cao niên từ xưa vẫn thường nói : hạn thái tuế. Có
thể nói rằng theo lối nhận xét trên đây cho nên trong nhiều lá số ngày xưa để
lại người ta thấy rằng khi an sao trên 12 Cung thì 3 vòng sau tràng sinh thái
tuế và lộc tồn đều an ở phía bên dưới như tràng sinh ở giữa, thái tuế bên phải,
lộc tồn bên trái. Ý niệm về vòng thái
tuế và vòng Mệnh thân : vòng thái tuế tượng trưng cho các chính thống của mình,
vòng Mệnh tượng trưng cho tư tưởng của mình, vòng thân tượng trưng cho hành
động của mình. Vòng thái tuế là tên của tam hợp ba Cung có tên giống địa chi
năm sinh. Vòng Mệnh là tam hợp 3 Cung Mệnh tài quan. Vòng thân là tên tam hợp 3
Cung có liên quan đến Cung thân. Sau đó ta ghi nhận ngũ
hành của mỗi vòng : thân tý thìn thủy, dần ngọ tuất hỏa, tỵ dậu sửu kim, hợi
mão mùi mộc. Vòng Mệnh cùng hành
với vòng thái tuế, còn vòng thân ở thế ngũ hành xung khắc là người ngụy quân tử
nói ngon lành mà hành động ác độc. Vòng Mệnh và vòng thân căn cứ trên luật tam
hợp. Khi Cung Mệnh đóng ở vị trí nào so với vòng thái tuế là phải nhìn vào thế
tam hợp của Cung an Mệnh như vòng tha nhân đối với vòng bản tính của đương số
là vòng thái tuế. Tam hợp của Cung an thân là vòng hành động của đương số biện
chứng quy luật ngũ hành ta vạch trần được tác phong đương số một cách rõ ràng.
Thí dụ người tuổi tỵ (vòng thái tuế là tỵ dậu sửu), Cung an Mệnh đóng ở tuất
vòng tha nhân là dần ngọ tuất là hỏa, Cung an thân đóng ở tý vòng hành động là
thân tý thìn là thủy. Ta lý giải ngay số người này là mẫu người ra đời bị chèn
ép ngược đãi (hỏa đốt kim), chịu nhiều thua thiệt vất vả (kim sinh thủy). Vòng
Mệnh cùng hành với vòng thân nhưng được vòng thái tuế sinh xuất là người hiền
lành nhu nhược an phận. Vòng Mệnh sinh nhập vòng thái tuế và vòng thái tuế lại
sinh xuất vòng thân là người nói hay như làm dở, nói nhiều làm ít, nhiều lý
thuyết ít thực hành, dốt hay nói chữ. Nếu trong vòng thái tuế không có địa
không địa kiếp đà la là người chính nhân quân tử. Nếu trong vòng thái tuế có
thêm kỵ đà không kiếp là người số phận hẩm hiu, có tài mà không có thời. Nếu
hai sao tả hữu đứng ở thế đối lập vòng thái tuế hay ở thế sinh nhập vòng thái
tuế là hạng hữu tài vô hạn làm điều khuấy đảo thiên hạ. Thí dụ tuổi ngọ vòng
thái tuế là hỏa có hai sao tả hữu đồng Cung ở mùi thì dù có không kiếp địa kỵ
hay không cũng là hạng lưu manh lừa đảo. Chữ thời với vòng thái
tuế : vòng thái tuế ngoài ý nghĩa cho biết thời may vận tốt 10 năm, nó còn Cung
cấp một đức tính quí báu là tìm biết tính của con người, cũng như thử thách
đương số trong sinh hoạt hàng ngày. Ta cần để ý về tuổi âm nam dương nữ như sau
: trước khi tới thời kỳ 10 năm của thái tuế thì đã gặp 10 năm của vòng thiếu dương
phúc đức tử phù. Tuổi dương nam và âm nữ lại gặp 10 năm của vòng thiếu dương
sau khi đã được hưởng 10 năm của vòng thái tuế quan phù bạch hổ. Cả hai cách cùng cho
ta thấy : xét luật ngũ hành thì vòng thiếu dương phúc đức tử phù ở thế lấn so
với vòng thái tuế quan phù bạch hổ. Thí dụ tuổi tuất dương nam thì vòng thái
tuế là hỏa, còn vòng của thiếu dương là mộc, mộc sinh hỏa có nghĩa là mình đang
gặp thuận lợi để lấn tới, lấy thời gian mộc để dưỡng cái ta, hỏa lợi thì có lợi
thật nhưng luật thừa trừ đã xuất hiện để ổn định sự bất công. Cho nên ai bước
vào thời kỳ này (vòng thiếu dương) sẽ gặp phải sao thiên không ở đồng Cung với
thiếu dương, đó là một nét thâm thúy và đầy nhân văn tính nhất của khoa Tử Vi.
Ở đời không nên tham vọng điều gì quá đáng vì sẽ gặp thiên không ở cuối đường
hầm (hạn thiên không ai biết xem Tử Vi đều biết rõ tác dụng khủng khiếp của
nó). Cụ Thiên Lương đã
triển khai vòng thái tuế về tầm quan trọng của nó giúp cho người xem cũng như
người học Tử Vi nhận biết đại vận hên xui. Đại cương Cung nào chứa vòng tam hợp
của thái tuế quan phù bạch hổ thì đại hạn 10 năm của Cung đó là thời vận tốt. Thí dụ như Mệnh tại
dậu, tuổi mão âm nam kim cục thì theo chiều nghịch Cung dậu từ 4 – 13, Cung
thân 14 – 23, Cung mùi 24-33 (vòng thái tuế), do đó 10 năm đại vận 24 – 33 là
lúc thịnh thời gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên tùy theo tam hợp của vòng thái tuế,
nếu gặp đầu Cung có thái tuế là đắc thời một cách chính đáng, quan phù là đắc
thời trong sự tính toán và bạch hổ là đắc thời trong sự làm việc vất vả. Cho
nên người có số Tử Vi thấy đến đại vận của vòng thái tuế kể như đến hồi thái
lai thoải mái. Nhưng có một đặc điểm ly kỳ là nếu tiểu vận tới cung chứa vòng
thái tuế lại phải đề phòng sự thiệt thòi đưa tới : tiểu vận đến Cung chứa sao
quan phù đề phòng thị phi miệng tiếng ; tiểu vận đến Cung chứa sao bạch hổ đề
phòng đau ốm tai nạn. Nói tóm lại đại vận
của vòng thái tuế là hên, tiểu vận là xui.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net)