Thường trong Tử vi yếu tố âm dương là quan
trọng vì là khởi nguyên của vũ trụ, kế đến xem xét các đặc tính của
tinh đẩu và sau đến ngũ hành của cung và sao. Các bậc thánh nhân , tiên
hiền đã đưa Tử vi về các cách để dễ luận đoán mệnh vận nhân sinh như:
TPVT - SPLT - CNĐL - CN - NHẬT NGUYỆT - VCD nhưng dù ở cách nào thì cũng
phải có các bộ trung tinh phò tá sáng sủa mới đắc cách như : Khôi Việt -
Xương Khúc - Quang Quý - Tả Hữu - Tam hóa (Khoa Quyền Lộc) - Tam minh
(Đào Hồng Hỷ) - Long Phượng.
Có nhiều lá số tốt tuy vậy đương
số hay than thở là lận đận, trắc trở trong cuộc sống là do MỆNH TỐT
không bằng THÂN TỐT, THÂN TỐT không bằng HẠN TỐT, điều này rất đúng vì
khi xem xét một lá số phải xem Mệnh Thân Phúc và các cung cường để nêu
bật các đặc tính cơ bản của cuộc đời tuy nhiên phải xét HẠN hành để thấy
được dòng chảy của cuộc đời đương số với những thăng trầm, biến cố ,
vinh quang , hạnh phúc trong kiếp nhân sinh.
Khi xét về hạn phải xem
có sự hợp cách hay không giữa các cách chính tinh ở cung Mệnh và cung
Hạn. Thứ đến phải xem hành của cung hạn và hành của bản mệnh tương sinh
hay tương khắc , sau đến xem hành của tam hợp tuổi có đồng hành hay
tương sinh với hành của tam hợp đại hạn thì ngon lành.
Thường khi xem xét 1 lá số người ta xét:
Mệnh
1 cung, tam hợp 2 cung, xung chiếu 1 cung, nhị hợp 1 cung, giáp 2
cung và dù thuận hay nghịch gì thì cũng từ cung Mệnh mà khởi Đại hạn 10
năm đi theo cục do vậy mỗi Đại hạn đều khác nhau từ lúc chào đời đến lúc
quy tiên. Bí quyết của Tử vi nằm ở nhị hợp, tam hợp đã được đặt thành
nguyên tắc, hệ thống hóa để sử dụng.
12 cung, tuổi được gom thành tam hợp:
Dần - Ngọ - Tuất hành Hỏa.
Hợi - Mão - Mùi hành Mộc.
Thân - Tý - Thìn hành Thủy.
Tỵ - Dậu - Sửu hành Kim.
Trong
4 thế tam hợp trên thì Tứ mộ hành Thổ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm nòng
cốt, nền tảng để Tứ sinh, Tứ chính được bồi đắp đầy đủ sung túc.
Trước
hết phải nói đến thế tam hợp vì là căn bản của thế đứng chân vạc của
mỗi cung, địa chi liên đới với nhau tạo thành một sức mạnh đứng trong
ngũ hành.
Khi xem xét nhị hợp phải biết cung đó trong thế tam hợp
nào đối với chính cung. Tình trạng nhị hợp thì chỉ có sinh nhập và sinh
xuất.
Ví dụ: Trên địa bàn xem xét cung Thìn (Thân Tý Thìn là tam
hợp Thủy) nhị hợp là cung Dậu sinh nhập cho cung Thìn có nghĩa là mọi
sự may rủi bộc phát.
Nếu xem xét cung Dậu (Tỵ Dậu Sửu là tam hợp
Kim) nhị hợp là cung Thìn (Thân Tý Thìn là tam hợp Thủy) thì Dậu phải
sinh xuất cho Thìn do đó mọi sự may rủi phải sút kém , không trông cậy
gì được ở nhị hợp.
- Xét vị trí xung ở thế khắc như Dần Ngọ Tuất (
Hỏa ) xung Thân Tý Thìn ( Thủy ) và Tỵ Dậu Sửu ( Kim ) xung Hợi Mão Mùi (
Mộc ) có nghĩa là chỉ có khắc xuất và khắc nhập. Chính cung khắc xuất
đối xung thì ví như người thắng cuộc. Trường hợp đối xung khắc nhập
chính cung thì làm sao chính cung thu được lợi lộc của cung xung chiếu
vì thế coi như là kẻ chiến bại.
Ngoài ra khi xem xét 1 lá số tổng
thể , toàn bộ cách cục phải xem xét đến 3 vòng Thái Tuế, Lộc tồn,
Tràng sinh vì 3 vòng này rất quan trọng cho thấy được tư cách của đương
số , sự thụ hưởng tài lộc và cách xử thế nhân sinh .
Nói túm lại cái
quan trọng chính yếu của Tử vi là tam hợp ,là căn bản chính của lý số
học. Khi nắm bắt được tam hợp sẽ suy ra nhị hợp và xung chiếu với các
sao tọa thủ, cư chiếu ở các cung ở vị trí đắc hãm, với 3 vòng Tuế, Lộc, Sinh xem như có thể đã biết 7/10 đời sống cá nhân của đương số. Tử
vi không chỉ là một khoa tìm hiểu số mệnh con người mà còn tiềm tàng gói
ghém phần triết học nhân sinh, một đạo lý cư xử minh triết, tinh tế,
trung thực cho hợp với đạo Trời đất, thuận lòng người.
Tham khảo
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net)