Điều kiện cơ bản của dự
đoán là yêu cầu người muốn đoán phải cung cấp chính xác :năm tháng ngày giờ
sinh, phải khẳng định chính xác mới dự đoán được . Rất dễ nhầm lẫn là không
phân biệt rõ ranh giới ngày hôm trước và ngày hôm sau, nhất là những người ở
nông thôn thường chỉ nhớ tối ngày hôm trước, giờ tí hoặc lúc gà gáy lần thứ nhất. Thực tế thì giờ tí
đã là ngày hôm sau rồi nhưng quên thêm một ngày. Ngày sinh đã sai là sai toàn bộ vì về bản chất mà nói,
đó không còn là Tứ trụ của người đó nữa.
Giờ tí là ranh giới giữa ngày hôm trước và ngày hôm sau, mà 23 giờ đã là giờ tí
rồi ( tức từ 23 giờ đến trước 1 giờ ). Nhưng người nông dân thường lấy 24 giờ,
tức từ không giờ trở đi mới tinh là bắt đầu ngày hôm sau. Do đó cần phải hỏi
giờ cho cụ thể. Ngoài ra ở thời điểm cuối giờ lẻ cũng phải hỏi cho rõ, ví dụ
trước ba giờ là giờ sửu, sau ba giờ là giờ dần. Nói chung, cung cấp ngày
giờ không tin cậy thì không nên đoán vì thứ nhất là phải đảm bảo đảm tính trách
nhiệm cao về lời nói của mình, thứ hai là phải trọng danh dự của mình, ngoài ra
cũng nên lưu ý, khi đoán sai, sẽ gây ảnh hưởng xấu cho “Chu dịch ứng dụng”, làm
mất lòng tinh. Sắp xếp Tứ trụ chính xác
là nội dung cơ bản của dự đoán. Viết ngày giờ sinh xong, ghi rõ các can tàng
trong địa chi. Sau đó căn cứ vào can ngày, xác định mười thần của các thiên can
lộ ra và cả các can tàng. Số bắt đầu của đại vận có thể kết hợp tính lúc tra
can chi, theo quy tắc đếm thuận hay đếm ngược, cứ ba ngày tính thành một năm để
tính các đại vận. Sau khi xếp xong đại vận , ghi mười thần tương ứng với can
vận, và cứ mười năm là một đại vận. Cuối cùng theo bảng thần, sát, ghi tên gọi
tắt các thần sát lên góc phải phía trên để khi dự đoán có thể nhìn thấy ngay
thần, sát gặp lục thần của cung nào, xung khắc ở gần hay xa, mức độ ảnh hưởng của nó. Đồng thời
cũng thấy được thần, sát gặp lục thân của cung nào, người đó được hưởng âm phúc
của ai hay hung sát sẽ gây tác hại cho ai. Nếu cần phải xếp tiểu vận,lưu niên
thì ghi chung xuống phía dưới của đại vận đó để dễ thấy rõ mức độ chúng hình
xung khắc hợp với đại vận. Xếp xong Tứ trụ bắt đầu
thẩm tra lại lực lượng vượng suy của các ngũ hành. Đầu tiên xem ngũ hành
của nhật can sinh vào tháng vượng hay nhược để biết nhật can được lệnh hay
không. Phân lệnh tháng là trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng
đều là nhật can được lệnh tháng. Tiếp đến xem nhật can
trong khi các chi khác là ở vào đất trường sinh, lộc, kình dương hay mộ, kho, có khí có gốc là đắt địa. Lại xem nhật can trong
các thiên can và địa chi có được chính ấn, thiên ấn sinh phù hay không, có ấn
tinh là được sinh. Xem nhật can trong các
thiên can khác có ngang vai, kiếp tài để giúp thân không. Có sao tỉ kiếp là
được trợ giúp. Tổng hợp các yếu tố :
được lệnh, đắc địa, được sinh, được trợ giúp, tuỳ theo mức độ sinh, khắc, hình
hợp xung hại , xa gần để có sự tăng giảm hợp lý. Sau đó lại tổng hợp các yếu tố
: quan sát khắc nhật can ; chính tài thiên tài làm hao tổn nhật can ; thực
thương làm xì hơi nhật can, tuỳ theo mức độ sinh khắc, hình hợp xung hại, xa
gần để tăng giảm. So sánh hai bên, nếu lực sinh phù nhật can càng lớn là thân
vượng. Ngược lại lực khắc, xì hơi, làm hao tổn lớn hơn là thân nhược. Thân vượng nên chọn cái
khắc, xì hơi, làm hao tổn thân là dụng thần ; lấy cái sinh thân, giúp thân làm
kị thần. Thân nhược thì ngược lại. Cách chọn dụng thần và kị thần là phải căn
cứ vào sự chọn lựa hợp lý các tổ hợp của Tứ trụ . Chủ yếu lấy hỉ,kị của tài
quan làm chuẩn. Lấy dụng thần có lực, có
tình, kị thần có chế áp, có hoá hay không để xác định giới hạn giàu sang, nghèo
hèn, cát hung, thọ yểu, xác định các thứ lớp mà mệnh vận người đoán có thể đạt
được. Lại xét xem dụng thần có
đến ngôi hay không, bị khắc hay không, có cứu hay không có cứu để định ra giới
hạn giữa các đại vận tốt, xấu và các vận thường, xác định vận tốt nhất, vận xấu
nhất, vận bình thường vào các đoạn tuổi nào của người dự đoán. Trong vận tốt lại cần
làm rõ những năm nào tốt nhất, những năm nào tốt vừa phải, năm nào kém hơn ;
trong vận xấu cũng cần làm rõ những năm nào xấu nhất, năm nào tạm đỡ và năm nào
gặp hung hóa cát, trong vận bình thường, năm nào trắc trở. Tổ hợp của đại vận ở
thời kì tốt nhất là tốt đến mức nào, căn cứ vào mười thần thì ứng vào việc gì
là chính. Ngược lại tổ hợp của đại vận ở
thời kì xấu nhất là xấu đến mức độ nào, ứng vào việc gì là chính. Ưng vào minh
hay ứng vào người thân bị khắc, hay đều bị sinh khắc hoặc đều bị xung hợp. Cuối cùng dự đoán ra nội
dung bị sinh khắc hay bị xung hợp . Ví dụ: ngũ hành bị xung hợp hay bị sinh
khắc ứng vào bệnh tật hay công tác, lục thân, buôn bán, v.v. mười thần bị xung
hợp hay bị sinh khắc ứng vào hôn nhân hay tài vận, quan vận, ốm đau, hay thọ
yểu, v.v.. Cũng có sách cùng bàn chung ngũ hành với mười thần. Như khi kiêu
thần đoạt thực thần (mười thần sinh khắc xung hợp ), năm đoạt thực thần vừa ứng
vào ốm đau, cũng có thể ứng vào công tác, buôn bán, cung mà lục thân ứng vào bị
ốm đau, thậm chí ảnh hưởng đến tuổi thọ của mình hoặc người thân. Như thế là địa chi năm
đó tương xung với địa chi trong Tứ trụ , vì thế mà thành kị thần. Tháng tương
xung thì mình hoặc là lục thân ứng với cung bị xung nhất định sẽ gặp nạn. Lúc
kết thúc dự đoán hoặc trước khi dự đoán nên kết hợp giữa mệnh cục và đại vận, tổng hợp cân bằng các thần, sát
để bàn về tính cách của người đến đoán.
Căn cứ vào Tứ trụ sinh hóa có tình hay
không để đoán người đó là người có tình nghĩa đến đâu. Từ tính hàn ôn thấp táo
trong Tứ trụ cũng có thể thấy được đó là người nhiệt tình, hòa hợp với mọi
người hay là người lãnh đạm, xa lánh mọi người. Qua Tứ trụ cương nhu, trung
chính hay nhu nhược, thiên khô (tức Tứ trụ có nhiều tổ hợp xấu) có thể biết
được người đó là quân tử hay tiểu nhân. Cho dù là người đoán hay độc giả đều
cần có sự hiểu biết căn bản đối với người được đoán, bao gồm bản thân họ và con
cái họ, như thế sẽ có ích cho việc kết bạn, giao thiệp, sẽ gần người tốt, tránh xa kẻ xấu, giúp cho sự lựa
chọn và phát triển nghề nghiệp được tốt hoặc tự nhắc mình cảnh giác đúng lúc ,
hoặc có thái độ đối xử với người được dự đoán cho hợp tình hợp lý. Trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net)