"Vọng bái ", nghĩa là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đình có những
điển lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ,
các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân
công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe
tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng
thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập
trung trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu
nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu
lại, thì đến ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ,
hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con truởng làm lễ, cho dù cửa trưởng
chỉ thuộc hàng cháu, thì chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại
nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối cửa thứ ngay ở
quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người con thứ 2 thế
trưởng được lập bàn thờ chính, còn bàn thờ ở nhà người anh cả ở xa quê
lại là bàn thờ vọng. Phong tục rất hay và rất có ý
nghĩa. Bởi lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ. Khi sống cũng như đã mất,
ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống hòa thuận, một
nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần
nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi, thì đó là mầm mống của sự
bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản được. Chưa phải là phong tục cổ
truyền, chưa có nghi lễ nhất định, mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho
nhau khoảng đầu thế kỷ lại nay tuỳ hoàn cảnh thuận tiện mà vận dụng:
Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng phải về quê chính báo cáo gia tiên tại
bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc mấy nén
hương đang cháy giở mang đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp. Nếu có nhà
riêng, tương đối rộng rãi khang trang, thì bàn thờ đặt hẳn một phòng
riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở phòng
khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách. Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng,
thì phải đặt thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Đặt hướng nào? - Hướng
về quê chính, để khi người gia trưởng thắp hương vái lạy thuận hướng
vái lạy về quê. Thí dụ người quê miền Trung sống ở Hà Nội thì đặt bàn
thờ vọng phía Nam căn phòng hay ngoài sân, ngoài hiên. Không nên đặt
bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường hợp nhà chật hẹp quá thì phải
chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh lối đi. Đối với những gia
đình ở khu tập thể nhà tầng, nếu câu nệ quá thì không còn chỗ nào đặt
được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một lọ cắm hương đầu
giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính, chẳng cần
phải câu nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao.
Các bàn
thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan
xin về cư tang ba năm (xem bài Lễ Cư tang). Các thiện nam tín nữ hàng
năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền
Sòng v.v... dần dần về sau, đường sá xa xôi, cách trở, đi lại khó
khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung,
dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau cùng xây
dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bàn thờ chính xin bát
hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí dụ ở số nhà 35 phố
Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là Đền thờ vọng của
núi Sòng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh). Cách lập bàn thờ vọng:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (XemTuong.net)