Lịch Sử Khoa Tử Vi Tử-vi không phải là một khoa học độc
lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng
Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là
người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có
trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi
tiếng. Trong thập niên 1960 trở lại đây, VN ở
hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày
mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình
bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi
được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của
cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ
những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh,
thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san
được xuất bản với tên Khoa Học Huyền Bí do ông Nguyễn
Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học
huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên
cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được
là bao. Tựu trung có các bộ sau đây : - Tử-vi đẩu số tân biên của Vân Điền Thái Thứ Lang. - Tử-vi áo bí của Hà Lạc Dã Phu. - Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc. - Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn. Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính
chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau,
khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là
sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí
quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử vi Áo
bí của Hà lạc Dã Phu. Hiện (1977) khoa Tử-vi ở VN, bị coi là
một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên
cứu, và các thầy Tử-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại
tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn
hồi 1975 về trước nữa. Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới
Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn
nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý
do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại
quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều
thì kiến thức rộng. Kiến
thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như
Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi,
hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực
là một điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện
tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản
không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá
trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu. Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho
phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử-vi, để độc giả có
một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng
hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác. Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương
VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau :
“Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá
trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu
nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn
anh em mà tôi được biết. (Chính là tôi và ba em tôi). Khi mới sanh, mỗi
người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá
nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người
con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ
con. Hiện nay, sau nửa thế kỷ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng
tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những
số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng
nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần
nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân
sự, hoàn cảnh vẫn là quan trọng”. (trang 174-175). Ngày
nay (1980) tôi có thể nói thêm : lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng
độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7,
càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà
lạc, tôi thấy : – Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết
tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không
thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung : Mệnh
(Thân), Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc. Phúc Đức, Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử
Tức, Huynh Đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết : tính tình mỗi người,
sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh
tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và
Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào
chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để
ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều
người tin là đúng. Sự thực, theo tôi thì khoa Tử vi không
hợp lý vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng
nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai
người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng
hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau :
điều đó không chấp nhận được. Khoa Tử Bình gọi năm, tháng, ngày, giờ
bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có
tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho
nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và
theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có
hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc
có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lý. Lại thêm nó dùng ít sao,
ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai.
Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không
thích khoa đó. Hà Lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm,
tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn Tử Bình ở chỗ đổi những
can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ
này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi
quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi
hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy
Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay
yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về
gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao,
tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch. So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử Vi thích
hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử Bình hợp lý, thích
hợp với giới trí thức; Hà Lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết
quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10. Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm
Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm
Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu. Số Tử vi đoán tính
tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con
cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn
43-52 tuổi thì sai nhiều. Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi. Số
Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì
cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi
đã nói. Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết
quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kỳ dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy
người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần
hoàn toàn sai cả nữa. Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là
đáng tin hẳn thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời
để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì.
Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực
của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số.
Tất cả các sách số đều khuyên vậy : “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn
hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ
nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng
tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ
nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng).
Những lời đó đều đúng cả. Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ (Pháp quốc) Người sành tử vi, đều biết rõ mỗi lục
thập hoa giáp có 518,000 dạng lá số (tạm gọi 518,000 lá số), nhân loại
ngày nay khoảng 6 tỉ người (tức là cứ 12,000 người có chung một lá số,
thế nhưng trong 12,000 cùng một lá số ấy có ai giống ai đâu ? Vẫn là
12,000 sứ mệnh khác nhau ! Điều này đã làm cho giới trí thức đâm ra bi
quan và nghi ngờ giá trị xác thực của khoa nghiệm lý Tử vi. Thật ra, cổ
nhân khi lập thành khoa lý học này, không phải để người ta dựa vào đó mà
luận sự sang giàu, nghèo hèn mà muốn hệ thống hóa cái đặc loại (type)
của con người, rồi do theo đó mà dạy dỗ, giáo dục từng đặc loại (theo
các phương pháp riêng biệt, tỷ dụ dạy trẻ thông minh thần đồng thì dạy
khác, dạy trẻ câm điếc lại cách khác nữa) sao cho tất cả mọi người cùng
xứng đáng với nghĩa làm người ! Trải qua thời gian, khoa tử vi dần dần
bị biến chất, hạ thấp thành phú đoán dị đoan (cốt xem vận mệnh, công
danh, phú quí ra sao để trục lợi). Thuật đối nhân xử thế tiềm tàng trong
mỗi lá số Tử vi, chính là cái tự do của con người (để sống hòa hợp với
bao nhiêu phiền toái và ràng buộc của con người với tạo vật, tạm gọi là
môi sinh). Vậy thì tử vi không là một kiểu định mệnh độc ác và bất khả
chối từ đâu ! Người hiện đại, nhất là giới trí thức đều nghĩ không có
định mệnh nào làm sẵn theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”
cả, không thể có một tha lực nào bắt con người phải nô lệ cho một định
mệnh ! Mỗi
lá số tử vi có một cung cách chung cho 12,000 người, nhưng đồng thời
lại có đủ 12,000 trình độ xử thế khác nhau (do con người chủ động cách
suy nghĩ và cách hành động của bản thân), và từ đó phát sinh ra 12,000
cái sứ mệnh khác nhau, không ai giống ai (ví như một lớp học, tuy cùng
một trình độ, có người hạng nhất, có người hạng trung bình và có người
xếp hàng chót). Người khoa học là người chịu khó quan sát nhiều lần cái
ngẫu nhiên giống nhau, mà qui nạp thành cái tất nhiên (gọi là qui luật).
Cổ nhân (gồm nhiều thế kỷ xa xưa kinh nghiệm, tích lũy được) cũng làm
theo hệ thống này mà tạo thành khoa nghiệm lý tử vi để hậu thế hiểu thêm
giá trị sống ở đời (mà vừa thích nghi vừa chế ngự thiên nhiên, hoàn
cảnh). Mỗi lá số tử vi có một cấu trúc thật
diệu kỳ (thật huyền ảo) của 14 chính tinh (chưa nói các phụ tinh khác),
ta tạm chia làm ba cách phân bổ : - Nhân cách là tính nhị hạp của Liêm với Lương, của Phá với Cơ, của Vũ với Nguyệt, của Nhật với Phủ, của Đồng với Tham - Địa cách là tính xung đối của Phá với Tướng, của Sát với Phủ - Thiên cách là cái tính hại của Tử với Cự, của Tướng với Cơ, của Nhật với Sát Sự hình thành chặt chẽ các thế đứng của
tinh đẩu vừa nêu ở trên (dù đóng ở bất cứ cung nào), chính là một cách
ẩn tàng khuyên bảo người ta nên đối nhân xử kỷ sao cho xứng danh “Nhân
linh ủ vạn vật”, từ đó nâng cao cuộc sống vật chất và nhân cách của bản
thân (Nguyễn Du: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều)… …. một vị thứ xếp hạng riêng biệt trong
12,000 người cùng một lá số tử vi người này vẫn khác người kia. Mỗi lá
số tử vi có cái thuận lợi riêng và cái bất lợi riêng của nó. Người sành
tử vi biết số của mình, không phải là biết khi nào vào vòng thái tuế,
lúc nào đáo vận thiên không, cái biết này chỉ là cái “dụng” tầm thường,
quan trọng hơn là ta phải biết cái “thể” rõ rệt mà xử lý với đời như thế
nào cho phải đạo. Nhân sinh quan của người thích tử vi có phần tích cực
và lạc quan (chứ không chịu dị đoan, yếm thế đâu). Nhìn vào lá số của
mình trong thiên bàn tử vi, suy gẫm về nhân cách (là các sao nhị hạp),
ta thấy bàng bạc các lời khuyên bảo chí tình : - Sống thanh bạch phải giữ cho được phẩm cách thanh cao, đấy mới là khó ở đời (Liêm trinh với Thiên lương) - Muốn đổi cũ thay mới, phải biết cân nhắc, tính toán cẩn thận và khôn ngoan, không thể phủ định tất cả (Thiên cơ với Phá quân) - Phải sống có tình cảm nhân hòa nhân ái, chứ không vì đồng tiền mà cô đơn, lẻ loi, ti tiện (Thái âm với Vũ khúc) - Phú quí song toàn, có nghĩa khi sống ở địa vị sang cả phải có lòng nhân hậu trong sáng (Thái dương với Thiên phủ) - Phải thành khẩn tu tâm, hối cải các
lầm lỗi, để diệt bớt dục vọng, đừng tham lam mà chỉ trích chuyện canh
cải sửa đổi hời hợt (Tham lang với Thiên đồng) Suy gẫm về địa cách (các sao xung đối), rõ ràng là thuật xử thế : - Lấy độc trị độc, cao nhân tất hữu cao nhân trị (Phá quân với Thiên tướng) - Lấy đạo cương nhu mà dung nạp nhau, đạo đức kiềm chế bớt hung bạo (Thất sát với Thiên phủ) - Suy gẫm về thiên cách (là tính hình
hại của các tinh đẩu. Tỵ hại Dần, Ngọ hình hại Sửu) cho thấy lối chỉ dạy
kinh nghiệm sống ở đời phải biết: - Khi có địa vị cao sang, phải biết nghe
lời phê phán. Sự bình phẩm của xã hội là cách tu sửa bản thân thêm
chính đáng (Tử vi với Cự môn) - Trí và Dũng không cân xứng là đau khổ, thiếu cái này là mất ngay cái kia (Thiên tướng với Thiên cơ) - Quân tử khó chung đụng với tiểu nhân, dự trong sáng nghiêm túc không dung chứa tà mị vũ phu (Thái dương và Thất sát). Nếu mỗi người chịu sống là làm theo “ẩn
ngộ” trong cấu trúc của các chính diệu nêu trên thì rõ ràng là đã giúp
mình tìm một vị thế riêng trong 12,000 người cùng một lá số tử vi. Cụ Thiên Lương nêu cao hai chữ Tài, Thọ,
để thế nhân hoán cải phần số của mình, thiết tưởng không bỏ qua cả
những cơ cấu chặt chẽ của tinh đẩu hình hại, tinh đẩu đối cung và tinh
đẩu nhị hạp (mà cụ Thiên Lương là người đầu tiên phát hiện rõ sự trạng
này) để ta thấy rõ cái bản thể của ta hơn. Đời người theo tình lý của khoa tử vi
chỉ là một “project schematique”, không một tha lực nào độ mạng cho ta
được, đời ta là do ta gây dựng mà thôi. Cái thú chơi tử vi là vậy đấy.
Khoa nghiệm lý tử vi không có tà thuật gì cả. Nó chỉ là một khoa chứa
đựng nhiều tinh túy nhân bản của người xưa, nói về đạo sống ở đời. Ta
thuộc về một lá số nào, thì ta phải cố mà bảo trì phát huy cái thuận lợi
chứa trong lá số của mình từ đó các tật xấu (hoa hại) sẽ bớt đi. Chẳng
khác nào ta biết được cái ưu, cái nhược của cái xe ta đi, nương theo đó
mà bảo trì, sửa chửa thì xe lâu hư lâu cũ! Vậy thì, không nên chê trách
các lá số kiểu Thiên không, mà cũng không nên tôn sùng quá đáng các lá
số Thái tuế ! Xe honda có mau hơn tốc độ, nhưng xe đạp vẫn giúp ích cho
đời nghèo chứ ? Vấn đề là dựa vào cấu trúc nhân cách (tính nhị hạp) địa
cách (tính xung đối) thiên cách (tính hình hại) trong tử vi mà xử thế
với đời, hai chữ thiên tài, thiên thọ nghiêm túc duy trì chính là học
làm người tốt lành trong xã hội tiến bộ. Nhìn chung mọi lá số tuy chứa 12,000
người kỳ thật lại xếp hạng từ thứ nhất, thứ nhì tới thứ 12,000 cả thẩy
512,000 lá số cho ta đủ 6 tỉ người có vị thứ khác nhau (mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười), đấy là sự thật rõ ràng nhất ! Hoàn
cảnh sống, dòng dõi, nền giáo dục được hấp thụ, tất cả đúc kết lại
thành “môi sinh” để mỗi người tự vươn lên, do đó việc có cùng một lá số
tử vi, mà không ai giống ai (kể cả việc anh em song sinh) là tất nhiên
vậy thôi. Lại nữa, con người cũng là một thứ sinh vật (như bao sinh vật
và vật chất khác) luôn biến dịch theo luật tuần hoàn của vật chất, nghĩa
là cùng chịu những chi phối của môi sinh (đồng thời cũng tác động lại
để cải biến môi sinh), nên dù ở loại lá số nào (và xếp hạng cao thấp
trong mỗi lá số) vẫn phải theo qui luật của môi sinh để trường tồn
(thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong, thiên ở đây là cái lý tất
nhiên tối cao, chứ không phải là mô thức Thượng đế nào). Tỉ dụ như muôn
loài động vật đêm tối thì đi ngủ, trời mưa gió thì tìm chỗ ẩn náu. Cái vi diệu của cuộc sống xã hội là có
rất nhiều cái lý tối cao chi phối con người, nên dù ở lá số nào, người
ta vẫn làm theo cái lý tối cao ấy (hoặc bằng vật chất, hoặc bằng tư duy)
rồi trong khi thi hành theo lý tối cao của môi sinh, ta lại thấy có các
trật tự khác nhau (vẫn là khác nhau!) giữa người này với người kia.
Chẳng khác nào việc ta cùng nắm trong tay nhiều hòn bi màu (là các lá số
khác nhau) rồi cùng một động tác duy nhất là ném ra xa (do một lý tối
cao chi phối), thử xem kết quả ra sao? Không hòn bi nào nằm ngang cùng
một khoảng cách đến bàn tay ném ra cả ! Cái trật tự, do lý tối cao chi phối các
hòn bi ấy vẫn có mức độ khác nhau. Vậy thì cùng một môi sinh hun đúc các
lá số tử vi vẫn phát triển một cách khác nhau. Đời người có may mắn có
họa hại, chẳng qua là do cung cách đối nhân xử thế của mỗi cá nhân không
có tha lực (thần quyền) nào dẫn dắt chúng sanh đâu ! Tác động qua lại giữa bản thể của ta với
môi sinh, chính là nguồn gốc của họa phúc. Khoa tử vi giúp ta thấy được
bản thể (cái thể xác thực là lá số tử vi của ta đang thuộc về) rồi tùy
ta (tự do tính) định liệu xử lý với ngoại cảnh (cái dụng chân thành).
Thể và dụng là chuỗi dài quá trình sinh hóa của con người khác nhau giữa
người với người là chính ở ta “sống với môi sinh” của ta như thế nào
thôi. Cái thú của khách mộ điệu tử vi không
phải là làm việc “bất xuất hô tri thiên hạ”, không phải làm “thầy” để
“bói” đời hẳn nhiên chỉ ở chỗ: “Bất khuy dữ kiến thiên đạo” (không sống
thừa không sống thiếu là thấy cái lý cùng thông của tạo vật, trong đó có
ta). Toán học thuần lý cho rằng “Les elements
des nombres sont les des choses”, thì khoa tử vi cũng vẫn nghiệm cái
lý: làm chủ bản thân hòa hợp với xã hội khi nào ta biết rõ cái số của ta
vậy. GS Lê Trung HưngBẠN CÓ TIN LÁ SỐ TỬ VI KHÔNG ?
Nhận xét của Nguyễn Hiến Lê
về khoa Tử vi - Tử bình – Hà lạc
Khoa lý Tử vi
có làm mất niềm tin không ?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (XemTuong.net)