Quan
sát sự vận động của mặt trăng, mặt trời là dựa vào sự thuận nghịch của Mộc
tinh. Nên nói phương Đông mộc, chủ về mùa xuân, giáp ất. Người thất nghĩa bị
phạt khi gặp tuế tinh ( mộc tinh). Quan
sát cương khí dựa vào Hỏa tinh. Nên nói, phương Nam hỏa, chủ mùa hạ, bính đinh.
Người thất lễ bị phạt khi gặp hỏa tinh. Xem
các sao lấy vị trí Thổ tinh làm căn cứ. Nên nói
thổ ở trung ương, chủ mùa hạ, mậu, kỷ. Đó là tượng của Hoàng đế, ông chủ
hay bà chủ. Quan
sát sự dịch chuyển của ngày lấy vị trí Kim tinh làm căn cứ . Nên nói, phương
Tây mùa thu, canh tân. Nó chủ về sát, thất sát. Người có thất sát sẽ bị phạt
khi gặp thái bạch. Quan
sát giờ căn cứ vào vị trí của Thủy tinh. Nên nói, phương Bắc thủy là tinh của
Thái âm, chủ về mùa đông, nhâm quý. Người thất hình bị phạt khi gặp sao giờ
sinh. Sách
“ Tố vấn khí giao biến đại luận” cũng đã ghi chép lại cách quan sát ngũ tinh để
đoán hoạ phúc. Sách đó có nói: .. . ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ vừa tốt
vừa xấu. Dùng nó để biết sinh tử hay thành bại”. Người ta có thể căn cứ vào độ
sáng, đường đi, vị trí xa gần, tốc độ của Hỏa tinh, Thổ tinh, Kim tinh ( sao
Thái Bạch), Thủy tinh để biết được tai hoạ hay may mắn. Đối với xã hội loài
người mà nói, việc mất cân bằng còn hệ trọng hơn nhiều so với sự vận động bình
thường. Sự thay đổi của trời đất tuy là điềm dự báo phúc hoạ trong nhân gian,
nhưng nguồn gốc sau xa của phúc hoạ lại nằm chính trong hành vi của con người.
Lấy âm dương ngũ hành tức là những cái biểu thị sự cân bằng hay mất cân bằng
giữa các can chi trong Tứ trụ để đoán biết cát hung, hoạ phúc của con người ,
đó là kết tinh sự thể nghiệm quý báu của con người Trung Quốc cổ đại. Lấy sự
sinh khắc, chế hoá của ngũ hành để giảm sự mất cân bằng của mệnh, đặng từ đó
hướng đến điều tốt, lánh xa điều xấu mới là ý nghĩa làm chủ vận mệnh của mình
một cách chân chính. NGŨ HÀNH SINH, KHẮC. Giữa
các ngũ hành tồn tại quy luật tương sinh, tương khắc. Giống như âm dương, tương
sinh, tương khắc là hai mặt gắn liền với nhau của sự vật. Không có sinh thì sự
vật không thể phát sinh và phát triển: không có khắc thì không thể duy trì sự
cân bằng và điều hoà của sự vật trong quá trình phát triển và biến hóa. Trong
ngũ hành sinh, khắc có mối quan hệ tương sinh hai mặt: cái sinh ra tôi và cái
tôi sinh ra; mối quan hệ tương khắc cũng có hai mặt : cái khắc tôi và cái tôi
khắc. Ngũ
hành tương sinh là : mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh
kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc. Ngũ
hành tương sinh có nghĩa là: -
Mộc sinh hỏa: vì mộc tính ôn, ấm áp tức hỏa ẩn phục bên trong , xuyên thủng mộc
sẽ sinh ra hỏa. Vì vậy mà nói mộc sinh hỏa. -
Hỏa sinh thổ: vì hỏa nóng cho nên đốt cháy mộc. Cháy hết biến thành tro tức là
thổ. Cho nên nói hỏa sinh thổ. -
Thổ sinh kim: vì kim ẩn tàng, vùi lấp trong đá, trong núi. Có núi tất có đá, vì
vậy nói hỏa sinh thổ. -
Kim sinh thủy: vì khí của thiếu âm ( khí của kim) chảy ngầm trong núi tức kim
sinh ra thuỷ. Vì vậy làm nóng chảy kim sẽ biến thành thuỷ, nên nói kim sinh
thuỷ. -
Thuỷ sinh mộc: nhờ thuỷ ôn nhuận làm cho cây cối sinh trưởng, nên nói thủy sinh
mộc. Ngũ
hành tương khắc. Mộc
khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hỏa, hoả khắc kim, kim khắc mộc. Ý
nghĩa của ngũ hành tương khắc. Ngũ hành tương khắc lẫn nhau đó là bản tính của
trời đất : thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim ; kim khắc mộc ; mộc khắc thổ ; thổ khắc
thuỷ. Mối
quan hệ sinh, khắc của ngũ hành. Ngũ
hành tương sinh theo quan hệ tuần hoàn ; tương khắc theo quan hệ khắc cách
ngôi. Điều
nên và điều kỵ của ngũ hành sinh khắc, chế hóa. Ngũ
hành không những có sinh, có khắc, bổ trợ cho nhau mà con khống chế lẫn nhau.
Ngoài ra còn có mặt thái qua và mặt bất cập. Điều đó làm cho việc dự đoán trở
nên phức tạp. Trong quá trình học tập muốn nắm vững mối quan hệ đối lập thống
nhất này thì cần phải nắm vững những điều nên và những điều kỵ để linh hoạt vận
dụng. Kim
: Kim vượng gặp hỏa sẽ trở thành vũ khí có ích. Kim
có thể sinh thuỷ, nhưng thuỷ nhiều thì kim chìm; kim tuy cứng nhưng cũng có thể
bị thuỷ dũa cùn. Kim
có thể khắc mộc. Nhưng mộc cứng thì kim
bị mẻ; mộc yếu gặp kim tất sẽ bị chặt đứt. Kim
nhờ thổ sinh, nhưng thổ nhiều thì kim bị
vùi lấp ; thổ có thể sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ biến thành ít. Hỏa
: Hỏa vượng gặp thuỷ thì trở thành ứng cứu cho nhau. Hỏa
có thể sinh thổ, nhưng thổ nhiều thì hỏa ám; hỏa mạnh gặp thổ sẽ bị dập tắt. Hỏa
có thể khắc kim, nhưng kim nhiều thì hoả tắt; kim yếu gặp hỏa tất sẽ nóng chảy. Hỏa
nhờ mộc sinh, mộc nhiều thì ngọn lửa mạnh ; tuy mộc có thể sinh hỏa nhưng hỏa
nhiều thì mộc bị đốt cháy. Thuỷ
: Thuỷ vượng gặp thổ sẽ thành ao hồ. Thuỷ
có thể sinh mộc, nhưng mộc nhiều thì thủy co lại; thuỷ mạnh khi gặp mộc thì khí
thế của thuỷ yếu đi. Thuỷ
có thể khắc hỏa, nhưng hỏa nhiều thuỷ khô;
hỏa nhược gặp thuỷ rất bị dập tắt. Thủy
nhờ kim sinh, nhưng kim nhiều thì thủy đục ; kim có thể sinh thuỷ nhưng khi
thuỷ nhiều thì kim lại bị chùn xuống. Thổ:
thổ vượng gặp mộc thì việc hanh thông. Thổ
có thể sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ
trở thành ít; thổ mạnh gặp kim thì sẽ khống chế được thổ ùn thành đống. Thổ
có thể khắc thuỷ nhưng thủy nhiều thì thổ bị trôi ; thuỷ nhược mà gặp thổ tất
sẽ bị chắn lại. Mộc:
Mộc vượng gặp kim sẽ trở thành rường cột. Mộc
sinh hỏa, nhưng hỏa nhiều thì mộc bị đốt ; mộc mạnh gặp hỏa thì mộc trở thành
yếu. Mộc
khắc thổ, nhưng thổ nhiều thì mộc bị lấn át ; thổ yếu gặp mộc thì sẽ trở thành
khô cằn nứt nẻ. Mộc
nhờ thuỷ sinh, nhưng thuỷ nhiều thì mộc bị dạt trôi ; thuỷ có thể sinh mộc ;
nhưng mộc nhiều thì thủy bị co lại. QUAN HỆ GIỮA NGŨ HÀNH VỚI CON NGƯỜI. “Chu
dịch” nói: mọi việc, mọi vật trong thế gian đều thống nhất ở thái cực. Kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ năm ngũ hành này là sự thể hiện rõ nhất, lớn nhất của vạn
vật. Cho nên mọi việc, mọi vật đều thống nhất ở âm dương, ngũ hành. Con người
là một trong vạn vật, tất nhiên nó phải tham gia vào sự vận động không ngừng
của vũ trụ. Tứ trụ dự đoán học với tư cách là sự giải thích toàn diện về cuộc
sống con người – tiểu thiện địa, nên đó là môn học về quy luật sinh mệnh của
con người. Nó vận dụng quy luật ngũ hành
để giải thích mối quan hệ giữa con người và trời đất. II.
BẢN TÍNH CỦA NGŨ HÀNH Bản
tính của con người là nói phẩm chất bẩm sinh vốn có. Cái gọi là tính tình tức
là chỉ sự mừng, giận, buồn , yêu, ghét và nhân, nghĩa, lễ, trí, tín luôn có mối
quan hệ gắn chặt với kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tuy bản tính con người tuỳ theo
ảnh hưởng của hậu thiên nhiên như hoàn
cảnh gia đình, môi trường giáo dục mà thay đổi, song căn cứ vào sự vượng suy và
sinh khắc của âm dương, ngũ hành đã được thể hiện trong Tứ trụ thì về căn bản,
thiên tính của con người là không dễ thay đổi. Những
cái mà ngũ hành đại biểu như tính tình, màu sắc, mùi vị, nhân thể, bốn mùa,
phương vị đều là những đặc tính căn bản. Ngũ hành trong Tứ trụ có mặt thiên
lệch về vượng , lại cũng có mặt thiên lệch về nhược. Mặt vượng là chỉ những đặc
tính lộ rõ, trội nổi ; mặt nhược chỉ là những tính chìm ẩn hoặc yếu ơn. Những
mặt thiếu khuyết trong Tứ trụ có thể được bổ sung tương ứng để hướng tới cái
tốt, tránh được cái xấu. Ví dụ: người mộc vượng thông qua sự cân bằng tổng hợp
của Tứ trụ có thể thể hiện ra tính mộc. Nếu mộc không đủ hay khuyết mộc
hoặc mộc bị khắc thì không những có thể thông qua vóc người, cá tính,
tướng mạo, sức khỏe để nhình thấy mà còn có thể đoán biết người đó hàng ngày ăn
uống thường nghiện thức ăn chua. Thích
chua chính là sự bổ sung bản năng về mặt sinh lý. Như vậy ta có thể thông qua
sự bổ sung lý tính hoặc qua sự lựa chọn có lợi cho sự nghiệp, tiền đồ hôn nhân,
tài phú, quan lộc, phúc thọ, lục thân, sức khỏe, nghề nghiệp để cân bằng tổng
hợp cho Tứ trụ. Tức là ta đã chọn sự bổ sung có lợi, không có hại. Chỉ riêng
một chữ “bổ” được gợi ý từ sách vở cũng đã giúp cho ta một phương châm để điều
chỉnh quy luật vận động sinh mệnh của cuộc sống. Chương 2 của cuốn sách này mọi
nội dung đều xoay quanh “bổ”, coi đó là chìa khóa vàng cho Nhập môn dự đoán
theo Tứ trụ. Hy vọng những người mới học nắm vững được nó để mở được cánh cửa
của kho báu về thuật số dịch học. “Bổ”
như thế nào ? Đó là bổ khí. Người ta thường nói: người sống nhờ thở khó. Học
thuyết âm dương ngũ hành từ xưa đến nay đối với con người thở khí trời đất để
sống mà nói đó chính là bổ khí: kim, mộc, thuỷ, hóa, thổ. Khí của âm dương ngũ
hành bao hàm khái niệm không gian và thời gian của vũ trụ. “Khí của trời đất”
chính là khí trong đục của ngũ tinh vận động trong thiên thể mà người đó nhận
được tại thời điểm và địa điểm lúc sinh ra. Từ
mệnh lý có thể đoán biết được bẩm tính của con người cũng như có thể đoán ra
được diện mạo, vóc dáng, nói năng, cử chỉ, thiện ác. Thông thường sự dự đoán cao
cấp, nhiều tầng không thể chỉ dùng một Tứ trụ mà phải dự đoán tổng hợp cả các
mặt mệnh lý, diện tướng, cốt tướng, vân tay, trong đó lấy mệnh cục làm chủ, các
tướng pháp làm bổ trợ, tham khảo, bổ sung. Độ chính xác của cách dự đoán đó
chắc chắn sẽ cao vì đã thoát ra khỏi
cách dự đoán chỉ dựa vào một mình Tứ trụ. Cách đoán đó đã tập hợp được
các mặt lộ ra về âm đức, phong thủy, nhà cửa, di truyền, ngũ hành của người đó,
tức là đã tổng hợp được các nhân tố khác nhau để rút ra kết luận dự đoán.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net)