Quỷ Cốc Toán Mệnh hay còn gọi là Quỷ Cốc Tiền Định Số là quyển sách mệnh lý được khắc bằng gỗ biên chép thuật Lưỡng Đầu Kiềm Toán Mệnh của Quỷ Cốc Tử tiên sinh nhằm luận đoán âm dương tiền định của đời người về danh lộc, họa phúc, hôn nhân, con cái, anh em, sự nghiệp và hậu vận. Phương pháp này được các nhà xem Tử Vi, Tứ Trụ sử dụng làm phần bổ trợ, tăng giảm độ số khi luận đoán. Sau đây là bài ca quyết Mệnh lý tiền định nói về thuật Lưỡng Đầu Kiềm này:
Quỷ Cốc Tiên sinh mệnh lý tường,
Kỳ thư nhất quyển phán âm duơng,
Tam tinh bải chưởng danh hòa lộc,
Tứ tự suy luân phúc cọng uơng,
Tế đoán hôn nhân đồng tử tức,
Dự tri huynh đệ cập hành tàng,
Nhất sinh cơ nghiệp tòng đầu vấn,
Hảo bả thu thành vấn cửu tường.
Thích nghĩa
Thầy Quỷ Cốc mệnh lý am tường,
Sách lạ một cuốn đoán âm duơng,
Ba sao trên tay biết danh, lộc,
Bốn chữ suy ra biết họa, uơng,
Đoán kỷ hôn nhân và con cái,
Biết trước anh em và sự nghiệp,
Cơ nghiệp cả đời cứ sách hỏi,
Về già hay dỡ cũng biết luôn .
Thông tin lá số
- Ngày Sinh Tây Lịch: Thứ Ba 08/04/1986
- Ngày Sinh Âm Lịch: 30/02/1986
- Tứ Trụ: năm Bính Dần, tháng Tân Mão, ngày Nhâm Ngọ, giờ Tân Sửu
- Lưỡng Đầu Kiềm: Bính Tân
QUẺ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU |
||
Bính |
Ly Trên |
|
Tân |
Càn Dưới |
|
Minh Nguyệt Mai Hoa Hoa mai trăng sáng Trọn đời được hưởng phúc thanh nhàn |
Phần Luận Đoán
Dựa theo Tứ Trụ, quý bạn sinh vào năm Bính Dần, tháng Tân Mão, ngày Nhâm Ngọ, giờ Tân Sửu, Lưỡng đầu kiềm Bính Tân được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU. Theo Quỷ Cốc tiên sinh, đây là cục Minh Nguyệt Mai Hoa (Hoa mai trăng sáng), nghĩa là: Trọn đời được hưởng phúc thanh nhàn (Nhất sinh đắc hưởng thanh nhàn chi phúc )
• Thử mệnh hữu cơ mưu thủ đoạn, Hữu tiền 前 hựu dụng hữu sự hội vi 爲, Chỉ nhân mệnh phạm thoái thần hung, Bằng nhĩ thiên ban 班 tu toán khởi, Sấn đắc thiên tiền 錢 tịnh vạn quan 貫 (Mệnh này có cơ mưu thủ đoạn nên làm việc thì sớm có công dụng gặp việc cùng nhau làm, chỉ vi mệnh xấu phạm phải thoái thần, anh phải dựng lên nhờ cậy khắp nơi để lo toan tính toán, được dịp sấn tới lấy được ngàn đồng tiền vạn đồng quan)
• Bán dạ tân cần, Chỉ lạc đắc thủ mang “忙: Bộn rộn, trong lòng vội gấp , Công việc bề bộn.” cước loạn, Nhược yếu thập toàn trùng trùng cải hoán, Chỉ nhân bát tự kiên lao, Túng hữu hung tai giảm bán, Lão niên thắng tợ thiếu niên, Hậu đoạn cường như tiền đoạn, Nhược phùng thuỷ thành thân, Phương thị tinh tinh hảo hán (Khó nhọc đến nửa đêm, chỉ thu được tay mõi chân loạn, nếu muốn mười phần toàn vẹn thì phải luôn luôn thay đổi, chỉ vì có tám chữ “năm tháng ngày giờ” ”bền vững, ví có hung hiểm tai họa cũng giảm đi một nửa, năm tuổi già được hơn như tuổi trẻ, đoạn sau mạnh như đoạn trước, nếu gặp nước thì thành thân, thế mới phải hảo hán sáng suốt)
Dựa trên 4 chữ vàng Tứ Tự Kim 'Minh Nguyệt Mai Hoa' (Hoa mai trăng sáng) để luận giải về các cung phúc họa, hôn nhân, con cháu, sự nghiệp, anh em và hậu vận. Mỗi cung mạng là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, chứa đựng nhiều hàm ý tiên định của Qủy Cốc Tiên Sinh và cùng lời bình giải của dịch giả.
Tên |
Lời Thơ |
Ý Nghĩa |
Tổng Cách |
HẠC LẬP THANH TÙNG Thanh tùng yển kiển nại xuân thu Bạch hạc phi lai lập thụ đầu Tính ngạnh tuyết sương tằng chiết tỏa Khí thanh đào lý bất đồng trù Lục thân tình ái phù vân tán Nhất thế tư tài giảm bán lưu Phân phó hậu viên tang đố thụ Lục âm lưu bạn hỉ ưu du | HẠC ĐỨNG TRÊN CÂY TÙNG XANH Cây tùng xanh lả lướt từ xuân sang thu Có con hạc trắng bay lên đậu trên ngọn Tính cứng cỏi từng bị tuyết sương làm cho giảm yếu Chí khí thanh cao không như cây đào cây mận Tình thân đối với quyến thuộc như mây nổi tan ngay Của cải trong đời người bị hư hao phân nửa Vẫn dặn dò những cây dâu ở vườn sau Sẽ làm bạn ngao du dưới bóng cây xanh biếc |
Cơ Nghiệp |
Thanh tùng bách xích lăng vân hán Khốc thạch y nham ổn xứ an Vạn lý giang sơn đa thiểu hận Qui lai đàn kiệp thán gian nan |
Cây tùng cao trăm thước ngất từng mây Tựa mình vào núi đá mà sống yên ổn Muôn dặm non sông bao nổi hận Gươm đàn một gánh trở về than thở là quá gian nan |
Huynh Đệ |
Thiên khoát nhạn hoành thu thủy viễn Phân phân bố trận thế thiên nan Cô phi độc hướng tiêu tương khứ Hồng lục bạch tần khô hậu hoàn |
Trời rộng nhạn bay ngang nước thu thăm thẳm Bối rối bày trận thế rất khó Bay một mình hướng về sông tiêu tương Cỏ lục đỏ cỏ tần trắng đều khô héo rồi mới trở về |
Sự Nghiệp |
Lai vãng đế kinh bách lý san Chung tu đắc lộ đáo trường an Lưỡng trùng vinh lộc đa tri kỷ Chỉ tiếu tang du tùng trúc giang |
Từ núi xa trăm dặm lui tới đế kinh Cuối cùng cũng tìm thấy đường đến Trường an (Kinh đô) Đầy dẫy vinh hoa phúc lộc nhiều bạn bè Trỏ tay về phía ruộng dâu vườn tùng vườn trúc mà cười. |
Hôn Nhân |
Kiến ngẫu đương thời nhật trác ngọ Nhược phùng bạch thủ dã nan kỳ Vân khai thiên lý đồng minh nguyệt Âu lộ phân phân mãn ngẫu trì |
Gặp người phối ngẫu lúc đó cũng như mặt trời đến giờ ngọ Đợi đến khi đầu bạc thì khó mà định được hạn kỳ Mây mở toang muôn dặm cùng với ánh trăng Cò vạc rối rít đầy ao sen |
Con Cái |
Chi thượng nhị tam hoàng bạch quả Tu lưu nhất quả tại lâm tiền Đình tiền quế tử hương do viễn Thử thị tiền sinh kết thiện duyên |
Trên cành có đôi ba quả màu vàng màu trắng Nếu lưu lại một quả ở trước rừng Mùi hương của quả quế trước sân còn từ xa Đó cũng là kiếp trước có duyên lành |
Hậu Vận |
Nhược kiến khuyển ngưu hành thủy chung San hô hải để phí nhân công Tiên kiều cao khóa ngưu dương quá Nhân hướng tây hồ dương liễu phong |
Nếu thấy chó trâu (Tuất, Sửu) đi trong nước Uổng công tìm kiếm san hô dưới đáy bể Cầu tiên đã bắc để cho trâu dê (Sửu, Mùi) đi Người hướng về phía Tây hồ trên hàng dương liễu |